ẢO TƯỞNG VỀ SỰ KHAN HIẾM – KINH TẾ HỌC THIÊNG LIÊNG
Trích: KINH TẾ HỌC THIÊNG; Nhóm dịch: Book Hunter &u Unschool; NXB Đà Nẵng
Để một cái gì đó trở thành đối tượng của thương mại, đầu tiên nó phải được làm cho khan hiếm. Khi nền kinh tế phát triển, theo định nghĩa, ngày càng có nhiều hoạt động của con người tham gia vào phạm vi của tiền, phạm vi của hàng hóa và dịch vụ. Thông thường chúng ta kết hợp tăng trưởng kinh tế với sự gia tăng của cải, nhưng chúng ta cũng có thể coi đó là một sự nghèo đi, sự khan hiếm gia tăng. Những điều mà trước đây chúng ta không bao giờ tưởng nghĩ là phải trả tiền, thì hiện tại chúng ta đã phải trả tiền cho nó. Trả tiền để sử dụng cái gì? Tất nhiên là để sử dụng tiền – thứ tiền mà chúng ta phải đấu tranh và hi sinh để có được. Nếu có một thứ khan hiếm, đó chắc chắn là tiền. Hầu hết những người tôi biết đều sống trong sự lo lắng không có đủ tiền, tự lo lắng ít đến lo lắng nhiều. Và như ta thấy, những người giàu có cũng không bớt lo lắng, nên chẳng có số tiền nào là “đủ”.
Từ góc nhìn này, chúng ta phải thận trọng khi bàn thân phận nó (tiền) với những thống kê kiểu như “Hơn hai tỷ người sống dưới hai đô la mỗi ngày”. Thu thập bằng tiền mặt thấp ở đây có thể có nghĩa là nhu cầu của một người được đáp ứng bên ngoài nền kinh tế tiền tệ, ví dụ thông qua các mạng lưới truyền thống của sự trao đổi và quà tặng. Trong những trường hợp như vậy, “phát triển” có nghĩa là làm tăng thu nhập bằng cách đưa các hoạt động kinh tế tiền tệ vào phạm vi của hàng hóa và dịch vụ, kết quả là tạo ra tâm lý khan hiếm, cạnh tranh và lo âu – những điều rất quen thuộc với chúng ta ở phương Tây, nhưng lại xa lạ với những người săn bắt hái lượm không dùng tiền hoặc những người nông dân tự cung tự cấp.
Các chương sau giải thích các cơ chế và ý nghĩa của sự biến đổi cuộc sống và thế giới thành tiền, sự biến tất cả mọi thứ thành hàng hóa và đang diễn ra trong vài thế kỉ qua. Khi một thứ trở thành tiền, thì sự khan hiếm tiền bạc làm mọi thứ trở nên khan hiếm, kể cả những điều vốn dĩ là nền tảng cho cuộc sống và hạnh phúc của con người. Đó là cuộc sống của nô lệ – của một người bị ép buộc phải làm việc gì đó để tồn tại.
Có lẽ dấu hiệu sâu sắc nhất về chế độ nô lệ của chúng ta là sự tiền tệ hóa thời gian. Đó là một hiện tượng có gốc rễ sâu hơn cả hệ thống tiền tệ của chúng ta, vì nó phụ thuộc vào cách đong do thời gian từ trước khi tiền xuất hiện. Một con vật hoặc một đứa trẻ có “tất cả thời gian trên thế giới này”. Điều này cũng đúng đối với những người thuộc thời kỳ đồ đá – những người có những khái niệm rất lỏng lẻo về thời gian và hiếm khi vội vàng. Các ngôn ngữ nguyên thủy thường thiếu thời gian, đôi khi còn không có từ “ngày hôm qua” hay “ngày mai”. Sự hững hờ với thời gian của những người nguyên thủy hiện tại vẫn còn rõ ràng ở các vùng nông thôn, những nơi mang có tính truyền thống hơn trên thế giới. Cuộc sống chuyển động nhanh hơn ở các thành phố lớn, nơi chúng ta luôn vội và vì thời gian lúc nào cũng khan hiếm. Nhưng trong quá khứ, chúng ta đã từng có đầy ắp thời gian.
Xã hội càng bị tiền tệ hóa thì các công dân của xã hội đó càng lo lắng và vội vã. Tại những nơi trên thế giới mà vẫn còn ở bên ngoài nền kinh tế tiền tệ, nơi nông nghiệp tự cung tự cấp vẫn còn tồn tại và nơi mà hàng xóm giúp đỡ lẫn nhau, thì tốc độ của cuộc sống chậm hơn, ít vội vã hơn. Ở nông thôn Mexico, mọi việc đều được làm mañana (ngày mai). Một phụ nữ nông dân Ladakh được phỏng vấn trong bộ phim “Ancient Futures” của Helena Norberg-Hodge đã tổng hợp tất cả những điều đó trong việc mô tả người em gái đang sống ở thành phố của cô như sau: “Có ấy có một cái nồi cơm điện, một chiếc xe hơi, một chiếc điện thoại – tất cả các loại thiết bị giúp tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, khi tôi đến thăm cô ấy, cô ấy luôn bận rộn đến nỗi chúng tôi hầu như không có thời gian để nói chuyện.”
Đối với một con thú, một đứa trẻ, hay một người săn bắt hái lượm, thời gian về cơ bản là vô hạn. Ngày nay, sự tiền tệ hóa thời gian đã làm cho nó cũng trở nên khan hiếm, như tất cả mọi thứ khác. Thời gian là cuộc sống. Khi chúng ta coi thời gian là khan hiếm, chúng ta sẽ thấy cuộc sống ngắn lại và trở nghèo nàn.
Nếu bạn được sinh ra trước thời kì kế hoạch của người lớn xâm chiếm cuộc sống của trẻ em và trẻ em bị thúc ép chạy từ hoạt động này sang hoạt động khác, thì có lẽ bạn vẫn còn nhớ cảm giác “thời gian là vĩnh cửu” của thời thơ ấu, những buổi chiều kéo dài mãi mãi, sự tự do vô tận của cuộc sống trước sự chuyển chế của lịch và đồng hồ. John Zerzan viết, “Đồng hồ làm cho thời gian khan hiếm và cuộc sống ngắn ngủi.” Một khi đã được định lượng thì thời gian cũng có thể được mua và bán, và sự khan hiếm của tất cả các loại hàng hóa liên quan đến tiền cũng ảnh hưởng tới thời gian. “Thời gian là tiền bạc,” – một cách nói khác của câu “Tôi không có thời gian.”
Nếu thế giới vật chất về cơ bản là một thế giới phong phú, thì thế giới tâm linh còn phong phú hơn nhiều: những sáng tạo của tâm trí con người – những bài hát, câu chuyện, phim, ý tưởng, và mọi thứ khác mà được gọi tên là “tài sản trí tuệ”. Bởi vì ở thời đại kỹ thuật số, chúng ta có thể nhân bản và lan truyền chúng với chi phí không đáng kể, nên sự khan hiếm nhân tạo phải được áp đặt lên chúng để giữ chúng trong phạm vi của tiền. Ngành công nghiệp và chính phủ thi hành sự khan hiếm thông qua luật bản quyền, bằng sáng chế và các tiêu chuẩn mã hóa, cho phép chủ sở hữu tài sản đó kiếm lợi nhuận từ việc sở hữu nó.
Sự khan hiếm là một ảo ảnh, một sáng tạo văn hóa. Nhưng bởi vì gần như toàn bộ cuộc sống của chúng ta nằm trong một thế giới được xây dựng bởi văn hóa, nên trải nghiệm của chúng ta về sự khan hiếm này là rất thật – thật đến nỗi hiện nay gần một tỷ người bị suy dinh dưỡng và khoảng 5.000 trẻ em chết mỗi ngày do các nguyên nhân gây ra do bị đói. Vì vậy, phản ứng của chúng ta đối với sự khan hiếm – lo lắng và tham lam – là hoàn toàn dễ hiểu. Khi cái gì đó dồi dào, không ai ngần ngại chia sẻ nó. Chúng ta sống trong một thế giới dồi dào, nhưng được làm cho khác đi bằng nhận thức của chúng ta, văn hóa của chúng ta, và những câu chuyện vô hình nằm sâu trong nhận thức của chúng ta. Nhận thức của chúng ta về sự khan hiếm là một lời tiên tri tự biến thành sự thật. Tiền là trọng tâm trong việc tạo dựng nên ảo tưởng về sự khan hiếm – một ảo tưởng có khả năng tự vật chất hoá.
Tiền, thứ đã biến sự dồi dào thành khan hiếm, tạo ra lòng tham. Nhưng không phải bản thân tiền mà chỉ là loại tiền hiện tại chúng ta đang sử dụng, loại tiền hiện thân của cảm giác mang tính văn hóa về cái tôi của chúng ta, hiện thân của những câu chuyện tưởng tượng mà chúng ta không có ý thức về sự có mặt của nó, và hiện thân của mối quan hệ thù địch với thiên nhiên mà chúng ta hình ngang năm này. Tất cả những điều này giờ đây đang thay đổi. Vậy, chúng ta hãy xem xét cách mà tiền trở thành thứ có ảnh hưởng đến tâm trí và cách sống của chúng ta, để chúng ta có thể hình dung cách mà hệ thống tiền tệ có thể thay đổi cũng bằng chính tâm trí và cách sống của mình.
