BÌNH MINH CỦA VŨ TRỤ NHÂN TÍNH: CUỘC GẶP GIỮA TAGORE VÀ EINSTEIN

Trích: Bạn Là Vũ Trụ; Nhóm Cùng Sống An Vui Dịch, NXB Thế Giới, Công Ty Sách Thiện Tri Thức

26/04/2025
32 lượt xem

Vào ngày 14 tháng 7 năm 1930, các phóng viên từ khắp nơi trên thế giới đã tập trung bên ngoài ngôi nhà của Einstein ở Caputh, một ngôi làng ngoại ô Berlin được những người khá giả ưa chuộng như một nơi thoát khỏi sự hối hả và nhộn nhịp của thành phố. Đó là sự kiện viếng thăm của Rabindranath Tagore, một nhà thơ vĩ đại của Ấn Độ khi đó đang ở đỉnh cao danh tiếng. Sinh ra trong một gia đình danh giá người Bengali vào năm 1861, trước Einstein gần 20 năm, Tagore đã đi vào trí tưởng tượng của phương Tây khi đoạt giải Nobel Văn học năm 1913. Ông cũng đồng thời là một triết gia và nhạc sĩ, người được phương Tây xem như là một hiện thân của truyền thống tâm linh Ấn Độ. Mục đích buổi gặp giữa Tagore và Einstein, một người được nhiều người gọi bằng danh xưng “khoa học gia vĩ đại nhất thế giới” và có lẽ cũng không có gì sai, là để đàm luận về bản chất của thực tại.

Khi khoa học đặt ra những nghi ngờ nghiêm trọng về thế giới quan của tôn giáo, thì độc giả có cảm nhận về một Tagore vô cùng thoải mái trong mối kết nối kỳ lạ và rất riêng tư với một cảnh giới cao hơn. Ngày nay, dù chỉ đọc một vài đoạn trong các tác phẩm của ông cũng tạo ra cùng một ấn tượng như vậy.

Tôi cảm thấy đau nhói bên trong –
Có phải linh hồn tôi đang cố thoát ra,
Hay linh hồn của thế giới đang cố xâm nhập?
Tâm trí tôi run rẩy trước những chiếc lá sáng lung linh.
Trái tim tôi ca hát khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.
Đời sống tôi reo vui khi hòa điệu cùng vạn vật
Hòa vào màu xanh của không gian và bóng tối của thời gian.

Vào ngày tháng Bảy đó, khi cuộc trò chuyện giữa họ được ghi lại cho hậu thế, Einstein không chỉ tò mò một cách lịch sự về thế giới quan của Tagore mà ông còn nhận ra sức hấp dẫn của một thực tại thay thế.

Einstein đặt câu hỏi đầu tiên. “Ngài có tin vào Thần thánh như là cái gì tách biệt với thế giới này không?”

Bằng tiếng Anh-Ấn hoa mỹ, Tagore đã đáp lại đầy bất ngờ, “Không hề có sự cách biệt nào cả. Khả năng vô hạn của con người bao trùm vũ trụ này. Không tồn tại bất cứ điều gì mà không thể được ôm trùm bởi nhân cách con người… Chân lý của vũ trụ là chân lý của con người.”

Kế tiếp, Tagore đặt ra một chủ đề pha trộn giữa khoa học và huyền bí trong một phép ẩn dụ. “Vật chất bao gồm các proton và electron cùng với khoảng không gian giữa chúng. Tuy vật chất bề ngoài dường như chắc đặc nhưng bên trong lại không có tính liên kết trong không gian hợp nhất từng electron và proton đơn lẻ… Toàn bộ vũ trụ được kết nối với chúng ta, với tư cách mỗi cá nhân, theo một cách tương tự – nó là vũ trụ nhân tính.”

Nói một cách đơn giản thì với vũ trụ nhân tính, Tagore đã đặt ra thách thức cuối cùng đối với chủ nghĩa duy vật. Ông cũng làm suy yếu niềm tin ấp ủ vào vũ trụ được tạo bởi một Đấng linh thiêng. Chủ nghĩa duy vật xem con người như một sự sáng tạo tình cờ xảy ra trên một đốm nhỏ của một hành tinh tràn ngập hàng tỷ thiên hà. Tôn giáo, được giải thích theo nghĩa đen cơ bản nhất, sẽ đặt tâm trí của Chúa vượt xa tâm trí con người một cách vô tận. Theo bản ghi chép lại cho thấy, Tagore không tin vào những điều này, và Einstein ngay lập tức bị cuốn hút bởi điều đó.

EINSTEIN: Có hai quan niệm khác nhau về bản chất của vũ trụ – thế giới như một thể thống nhất phụ thuộc vào con người, và thế giới như một thực tại độc lập với nhân tố con người.

Tuy nhiên, Tagore bác bỏ mệnh đề hoặc cái này, hoặc cái kia.

TAGORE: Khi vũ trụ hòa điệu với con người trong sự vĩnh cửu, chúng ta biết đó là sự thật, chúng ta cảm nhận nó chính là vẻ đẹp.

EINSTEIN: Đây là nhận thức đơn thuần của con người về vũ trụ.

TAGORE: Không thể có nhận thức nào khác.

Ông không thốt ra những vần thơ, hay thậm chí là giáo điều thần bí. Tagore – trong chiếc áo choàng thướt tha và bộ râu dài bạc trắng của nhà hiền triết – đã 70 năm chấp nhận quan điểm khoa học về thực tại, và ông cảm nhận rằng mình có thể chống lại quan điểm đó bằng một điều gì đó sâu sắc và gần gũi với sự thật hơn.

TAGORE: Thế giới này là thế giới của con người… thế giới ngoài chúng ta không tồn tại. Đó là một thế giới tương đối, tùy thuộc vào nhận thức của chúng ta về thực tại.

Không nghi ngờ gì việc Einstein hiểu được những ẩn ý về “vũ trụ nhân tính” của Tagore, và ông không chế nhạo nó hay tìm cách phá hoại nó. Nhưng ông cũng không thể chấp nhận nó. Trao đổi quan trọng nhất đã được diễn ra ngay sau đó.

EINSTEIN: Vậy thì sự thật hay vẻ đẹp không độc lập với con người?

TAGORE: Không.

EINSTEIN: Nếu không còn bất cứ con người nào nữa thì Apollo Belvedere (một bức tượng cổ điển nổi tiếng ở Vatican) sẽ không còn đẹp nữa.

TAGORE: Không!

EINSTEIN: Tôi đồng ý với quan điểm này về cái đẹp, nhưng không đồng ý với sự thật.

TAGORE: Tại sao không? Chân lý được nhận ra thông qua con người.

EINSTEIN: Tôi không thể chứng minh quan điểm của mình là đúng, nhưng đó là tôn giáo của tôi.

Einstein khiêm tốn một cách đáng ngạc nhiên khi nói rằng ông không thể chứng minh rằng chân lý, vốn là nền tảng của khoa học khách quan, lại độc lập với con người. Con người không nhất thiết phải tồn tại để nước trở thành H2O hoặc để lực hấp dẫn thu hút bụi giữa các vì sao và hình thành nên những ngôi sao. Bằng cách vận dụng ngôn từ một cách khéo léo, Einstein đã nói, “Tôi có niềm tin rằng thế giới khách quan là có thật, mặc dù tôi không thể chứng minh điều đó.”

Cuộc gặp gỡ nổi tiếng một thời này giữa hai bộ óc vĩ đại giờ đây phần lớn đã bị lãng quên. Nhưng theo một cách đáng ngạc nhiên, nó mang tính tiên tri, bởi vì khả năng tồn tại của một vũ trụ nhân tính, một vũ trụ phụ thuộc vào chúng ta để tồn tại, giờ đây ngày càng trở nên lớn hơn. Khả năng tuyệt vời nhất, rằng chúng ta là người sáng tạo ra thực tại, không còn là điều kỳ lạ nữa. Xét cho cùng thì niềm tin và sự hoài nghi cũng là sự sáng tạo của con người.