KHI Ở ĐÂY LÀ Ở ĐÓ

GREGG BRADEN

Trích: Ma Trận Thần Thánh; Nguyễn Tiến Hòa dịch; NXB Dân Trí, Sách Thiện Tri Thức.

Nếu vũ trụ của chúng ta và vạn vật trong đó được thực sự đựng bên trong vật chứa của Ma Trận Thần Thánh như các thí nghiệm đã gợi ý thì chúng ta có thể sớm nhận ra bản thân đang tái định nghĩa các ý tưởng của mình về không gian cũng như thời gian. Chúng ta thậm chí có thể khám phá ra rằng các khoảng cách dường như tách biệt chúng ta với nhau và những người thương yêu thật ra chỉ ngăn cách chúng ta về mặt thể xác. Như chúng ta đã nhìn thấy trong câu chuyện của Joey và cha của ông, có thứ gì đó bên trong chúng ta không chịu tác động từ giới hạn của không gian hay các định luật vật lý thông thường.

Mặc dù những khả năng này có thể nghe như chuyện khoa học viễn tưởng, chúng cũng là những đối tượng của những cuộc nghiên cứu khoa học nghiêm túc – trên thực tế, nghiêm túc đến nỗi trong suốt những năm cuối của Cuộc chiến tranh lạnh, cả Mỹ và Liên xô cũ đã bỏ ra số lượng tiền bạc và công sức khổng lồ để tìm hiểu chính xác thứ ma trận kết nối vạn vật thực ra có bao nhiêu phần trăm là thật. Các quốc gia siêu cường muốn biết cụ thể là liệu người ta có thể hay không tìm đường xuyên qua những khoảng cách xa xôi thông qua ma trận bằng cách sử dụng tâm nhãn – những khả năng siêu linh theo kiểu thần giao cách cảm nào đó được gọi là quan sát từ xa. Các kết quả nghe có vẻ tương đồng một cách đáng ngạc nhiên với một số bộ phim nổi tiếng trong những năm gần đây và rất có thể chính là nền tảng cho kịch bản của những bộ phim này. Các thí nghiệm cũng khiến cho ranh giới vốn đã rất mờ giữa thực tế và viễn tưởng trở nên nhạt nhòa hơn bao giờ hết.

Vào năm 1970, Mỹ chính thức bắt đầu điều tra về khả năng sử dụng phương pháp ngoại cảm để “lướt qua” Ma Trận Thần Thánh và nhìn ngó vào những vùng đất và mục tiêu kẻ thù ở xa. Sau đó, CIA đã tài trợ cho các thí nghiệm ban đầu sử dụng những người có thiên hướng ngoại cảm như người thấu cảm – empath (để tập trung tâm trí vào các địa điểm đã được phân loại. Sau khi họ làm như vậy, người ta đào tạo họ để mô tả những gì họ tìm thấy ngày một chi tiết hơn. Với từ viết tắt SCANATE, nghĩa là “quét theo tọa độ”, chương trình này là một trong những tiền thân của các nghiên cứu nổi tiếng hiện nay tại Viện Nghiên cứu Stanford (SRI) về khả năng quan sát từ xa.

Mặc dù trong một số khía cạnh, việc quan sát từ xa có vẻ hơi “bất thường” nhưng nó thực sự dựa trên các nguyên tắc lượng tử có căn cứ, một vài nguyên tắc trong số đó đã được chúng ta khám phá trong cuốn sách này. Ngay cả các chuyên gia cũng thừa nhận rằng không một ai biết chính xác khả năng quan sát từ xa vận hành như thế nào. Nhìn chung, thành công của nó là nhờ ý tưởng từ vật lý lượng tử rằng trong khi mọi thứ có thể trông vững chắc và tách biệt với chúng ta, chúng tồn tại và được kết nối với tất cả những thứ khác như một trường năng lượng phổ quát. Lấy ví dụ, trong khi chúng ta có thể cầm trong tay một chiếc vỏ sò tuyệt đẹp, theo góc độ lượng tử, có một phần mang tính chất năng lượng của chiếc vỏ sò đó hiện hữu ở khắp nơi. Do chiếc vỏ sò của chúng ta tồn tại cả ở ngoài vị trí mà chúng ta giữ nó trên tay, người ta gọi đây là tính “phi cục bộ”.

Ngày càng có nhiều nhà khoa học chấp nhận bằng chứng thí nghiệm rằng vũ trụ, hành tinh và thậm chí cơ thể của chúng ta cũng có tính chất phi cục bộ. Chúng ta vốn đã ở khắp mọi nơi và luôn luôn tồn tại. Như Russell Targ nhận định trong Chương 4, mặc dù chúng ta có thể tách biệt với nhau về mặt vật lý, chúng ta vẫn có thể giao tiếp tức thời – và đó chính là tất cả những gì về quan sát từ xa.

Thực ra mà nói, những người quan sát từ xa trong chương trình SCANATE đã được dạy cách thực hiện một giấc mơ tỉnh thức hay còn gọi là giấc mơ “sáng suốt” (lucid dream). Ở trạng thái đã được biến đổi, họ cho phép toàn thức của họ tự do tập trung vào các địa điểm chính xác. Những địa điểm này có thể là một căn phòng khác trong cùng tòa nhà hay ở tít phía bên kia thế giới. Targ sau khi đã làm rõ sự kết nối của vũ trụ trong thế giới lượng tử với tuyên bố: “Việc mô tả những gì đang diễn ra ở vùng sâu vùng xa của Liên bang Xô viết không có gì khó hơn việc mô tả những chuyện đang xảy ra ngoài phố”. Các học viên đã được huấn luyện liên tục ba năm trước khi người ta điều động họ thực hiện các nhiệm vụ bí mật.

Chi tiết về các dự án quan sát từ xa của quân đội Hoa Kỳ tới mãi gần đây công chúng mới được biết, mô tả ít nhất hai hình thức quan sát từ xa. Hình thức đầu tiên được gọi là quan sát từ xa theo tọa độ, bao gồm những mô tả của người quan sát về những gì họ tìm thấy tại các tọa độ địa lý cụ thể được xác định bằng vĩ độ và kinh độ. Hình thức thứ hai được gọi là quan sát từ xa mở rộng, dựa trên một loạt các kỹ thuật thư giãn và thiền định.

Mặc dù các chi tiết cụ thể của mỗi phương pháp là khác biệt nhưng nói chung, quy trình quan sát từ xa bắt đầu với việc người quan sát bước vào trạng thái thư giãn nhẹ, do ở trạng thái này, họ dường như trở nên cởi mở hơn trong việc tiếp nhận các ấn tượng giác quan về các vị trí xa xôi. Trong các buổi quan sát từ xa, một người nữa thường tham gia với tư cách người hướng dẫn có vai trò trợ giúp người quan sát bằng cách nhắc nhở anh ta hay cô ta nhìn vào các chi tiết cụ thể. Thông qua một loạt giao thức cho phép người quan sát phân biệt ấn tượng nào là quan trọng đối với “nhiệm vụ” cụ thể, người đó có thể mô tả cái mà anh ta hay cô ta nhìn thấy với mức độ ngày một chi tiết hơn. Sự nhắc nhở của người hướng dẫn dường như để tách dạng thức quan sát từ xa có kiểm soát và để người quan sát không sa vào giấc mơ tỉnh thức/sáng suốt thường phát sinh một cách tự nhiên trong giấc ngủ.

Những gợi ý cho ngành mật vụ là vô cùng to lớn và đã mở ra cánh cửa cho một kỷ nguyên thu thập thông tin tình báo mới với ít rủi ro hơn đối với những người thực thi tại hiện trường – ít rủi ro hơn, chuyện là vậy cho đến khi các chương trình quan sát từ xa bị chấm dứt vào giữa những năm 1990. Với những cái tên mật mã rất hay như Dự án Stargate, dự án cuối cùng đã chính thức khép lại vào năm 1995. Mặc dù quy trình này bị một vài người coi là thứ khoa học “ngoài rìa” và thậm chí còn bị những người hoài nghi trong giới quân sự rất xem nhẹ, một số buổi quan sát từ xa đã được chứng thực thông qua những thành công không thể được coi là trùng hợp ngẫu nhiên. Một vài phiên quan sát thậm chí có lẽ đã cứu được mạng người.

Trong cuộc chiến Vùng Vịnh đầu tiên vào năm 1991, người ta đã đề nghị những người quan sát từ xa truy tìm các vị trí tên lửa của kẻ địch được giấu trong vùng sa mạc phía tây Iraq. Dự án đã chỉ ra chính xác các vị trí đặt tên lửa và loại bỏ các khu vực được xem xét khác. Lợi thế của việc tìm kiếm ngoại cảm như vậy là quá đỗi hiển nhiên. Bằng việc thu hẹp các vị trí có khả năng đặt vũ khí, người ta đã tiết kiệm được mọi thứ từ thời gian, nhiên liệu cho đến tiền bạc. Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất lại chính là mạng sống của những người lính. Việc tìm kiếm từ xa các tên lửa gây chết người đã làm giảm rủi ro đối với những người lính mà đáng lý ra thường phải tự thân thực hiện một nhiệm vụ như vậy.

Lý do tại sao tôi đề cập đến những dự án và kỹ thuật này ở đây là bởi lẽ chúng đã minh chứng thành công hai điều mấu chốt trong sự hiểu biết của chúng ta về Ma Trận Thần Thánh. Đầu tiên, chúng cũng là một chỉ báo khác cho thấy Ma trận tồn tại. Để một phần trong chúng ta ngao du đến các địa điểm xa xôi và nhìn thấy các chi tiết của những thứ rất thực mà không phải rời khỏi ghế ngồi thì nhận thức của chúng ta cần phải có thứ gì đó để đi qua. Ý chính mà tôi muốn nói ở đây là người quan sát có quyền truy cập vào điểm đến, bất kể vị trí nào. Thứ hai, bản chất thật sự của năng lượng khiến việc quan sát từ xa trở nên thành công cho thấy sự kết nối toàn ảnh dường như là một phần đồng nhất của chúng ta. Trước bằng chứng về Ma Trận Thần Thánh, những ý tưởng xưa cũ về con người chúng ta và cách chúng ta vận hành trong không gian – thời gian bắt đầu sụp đổ.

Bình luận


Bài viết khác của tác giả

  1. KHI CÁI VỀ SAU LÀ CÁI HIỆN TẠI
  2. SỐNG THEO ĐÚNG CÂU TRẢ LỜI
  3. NGUỒN GỐC CỦA MA TRẬN THẦN THÁNH

Bài viết mới

  1. HẠNH PHÚC VÌ BIẾT ĐỦ
  2. AI CŨNG CÓ THỂ HẠNH PHÚC NGAY TỪ GIÂY PHÚT NÀY
  3. QUAN SÁT NGÔN NGỮ CƠ THỂ