TÌM LẠI CHÍNH MÌNH GIỮA HỖN ĐỘN
Trích: ĐỪNG LỰA CHỌN AN NHÀN KHI CÒN TRẺ; Người Dịch: BẢO ÂN; NXB LAO ĐỘNG
Vào một ngày Chủ nhật, tôi tham dự thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ Công giáo gần nơi tôi sống. Khi bước vào, tôi thấy cả nhà thờ tĩnh lặng trước giờ lễ, ánh nắng khẽ rơi xuống soi rõ những bức tượng thánh. Trên những dãy ghế dành cho giáo dân là các tín hữu thuộc mọi chủng tộc và có hoàn cảnh xuất thân khác nhau. Có người đi lễ cùng gia đình, nhưng cũng có người tới một mình, một vài tín hữu lại đang quỳ gối cầu nguyện trong thinh lặng. Tôi thấy thật khó hiểu, tại sao một nhóm người không có điểm gì chung như vậy lại có thể tề tựu ở cùng một nơi mà không vì lý do gì cả. Mỗi người vẫn là một cõi riêng, nhưng lại được hợp nhất trong một thứ vô hình mà tôi không sao hiểu được. Kể từ giây phút đó, tôi quyết định theo học giáo lý dự tòng để gia nhập Công giáo và vào năm 2006, tôi đã được rửa tội trong một thánh lễ vô cùng long trọng – lễ Vọng Phục Sinh.
Ban đầu, tôi không tìm thấy sự liên kết giữa niềm đam mê tôn giáo của mình với cuộc khủng hoảng nội tâm mà bản thân tôi đã chịu đựng suốt năm năm qua. Không lâu sau khi được rửa tội, tôi lại chuyển đến giảng dạy tại một ngôi trường ở thành phố Baltimore, miền Đông nước Mỹ. Nhưng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, những dấu hiệu của nghèo đói và khổ đau đã xuất hiện ở thành phố này, khiến cho tôi một lần nữa cảm thấy không gắn bó được với sự nghiệp học thuật. Tôi đến thăm một vài nhà thờ ở những khu phố hoang tàn, trên mặt đường toàn những mảnh thủy tinh vỡ còn những khung cửa sổ thì bị che kín. Không giống như những khu vực bị bỏ hoang khác tại các thành phố lớn ở Mỹ, sự hoang tàn ở nơi đây cứ âm thầm lan ra, ẩn sau mỗi công cuộc phát triển mới. Nỗi khổ đau mà tôi từng nghĩ là vô cùng hiếm gặp, giờ đây lại xuất hiện ngay xung quanh tôi.
Được đức tin dẫn dắt, những tranh đấu trong tâm trí tôi dường như muốn vượt ra khỏi thế giới này, nhổ tung cái mỏ neo vốn cắm sâu trong tâm khảm tôi. Tôi bắt đầu hiểu rằng con người không chỉ khổ đau trong những hoàn cảnh nhất định, và không thể chấm dứt nỗi khổ đó chỉ bằng việc thay đổi một vài chính sách. Nỗi khổ có ở khắp mọi nơi và nguyên nhân gây ra khổ đau cũng vậy. Nỗi khổ là một thế lực mang tầm vũ trụ, một thực tại vốn luôn hiện hữu. Từ đó, tôi cố gắng tập cho mình thói quen không thờ ơ trước nổi khổ của người khác, mà chủ động tìm đến san sẻ với họ.
Cũng vì vậy, sự chán nản của tôi với công việc và mục tiêu của đời mình lại càng gia tăng cả bên ngoài lần trong nội tâm. Nhìn ra thế giới xung quanh, tôi thấy vô vàn bất ổn và khổ đau mà bản thân tôi không giúp được gì. Còn đời sống học thuật của tôi thì ngày càng lộ rõ sự nông cạn. Tôi cứ mãi chạy theo lợi danh bằng cách gây tổn hại cho người khác, hơn nữa, tôi và các đồng bạn trong giới thường hay tự ca ngợi mình là thượng đẳng, khác với phần còn lại của thế giới xấu xa kia. Tôi còn nhớ trong một buổi tiệc của giới học thuật, tôi đã cảm thấy buồn nôn khi lũ học giả chúng tôi cho rằng giá trị cốt lõi trong đời sống là rượu vang hảo hạng và những chuyến du lịch châu Âu.
Bấy giờ, tôi đã quen với việc được tưởng thưởng sau khi hoàn thành những công trình trí tuệ của mình bằng tiền bạc, địa vị, và danh vọng. Rồi từ lúc nào chẳng hay, tôi đã chuyển sang tập trung vào kết quả của các công trình nghiên cứu, thay vì vào bản thân công trình đó. Tôi đã đánh mất khả năng suy nghĩ tự do và cởi mở về một chủ đề, vì lo ngại rằng tôi sẽ mất đi vị trí hiện tại trong giới học thuật mà mình vất vả lắm mới có được. Tôi đâm đầu vào những đề tài nghiên cứu hạn hẹp, và không cho bản thân thời gian để đọc hay suy ngẫm một cách cởi mở hơn. Tôi và đồng bạn chỉ chăm chăm tìm đến những nơi chốn sang chảnh, tận hưởng những trải nghiệm và sản phẩm đỉnh cao như một quyền lợi của việc tham gia vào cộng đồng các học giả quốc tế. Tôi đã tới Lisbon, London và Berlin, thăm vô số nhà hát, bảo tàng, tận hưởng đồ ăn thượng hạng và chương trình ca nhạc hoành tráng. Trong tôi vẫn luôn có một sự đấu tranh tư tưởng dai dẳng: giữa những lạc thú bản thân vẫn tận hưởng bấy lâu và niềm thấu cảm đối với những khổ đau của thế giới.
Tuy vậy, khi tiếp tục phiêu lưu trong hoạt động thiện nguyện, tôi đã gặp được rất nhiều người thú vị nằm ngoài giới trung lưu. Tôi kết bạn với một cặp đôi ở phân hội của Cộng đồng Công nhân Công giáo (Catholic Worker Movement), mấy chục năm nay, họ vẫn luôn chung tay giúp đỡ những người nghèo khó tại địa phương. Một cặp đôi khác đã nghỉ hưu chuyển nhà tới gần một trại giam để cung cấp chỗ ở tạm cho người nhà của các phạm nhân tới thăm nuôi. Tôi cùng làm tình nguyện với một sơ có tính tình khá cứng rắn, đủ khả năng vượt qua những thủ tục quan liêu nơi trại giam dành cho phụ nữ. Chúng tôi thể hiện sự đồng cảm và yêu thương đối với họ qua những hình thức đơn giản như: cho họ quần áo và đồ dùng vệ sinh cá nhân, cùng họ trò chuyện, và cầu nguyện cho họ. Tôi cũng gặp những bạn trẻ, cả nam lẫn nữ, đã từ bỏ sự nghiệp danh giá nhưng nhàm chán của mình để tìm đến những người nghèo khó nhất. Họ muốn sống khác đi, tránh xa đời sống trung lưu vị kỷ. Tôi tình cờ hội ngộ với một anh chàng luật sư đang công tác tại Sở Giao dịch Chứng khoán, anh ta bắt đầu tuần làm việc của mình bằng cách làm tình nguyện ca đêm tại một bệnh viện chuyên điều trị ung thư, do dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa quản lý. Tất cả họ đều không mưu cầu danh tiếng cho bản thân. Họ chỉ tận tụy phục vụ trong âm thầm.
Dẫu vậy, tôi vẫn là một giáo sư ở trường đại học, giảng dạy trong những hội trường lớn về Plato, Aristotle hay những vấn đề đạo đức đương đại. Sự ẩn danh của nền giáo dục đại học đương đại mâu thuẫn sâu sắc với tính chất vị nhân sinh của những công việc thiện nguyện mà tôi, cũng như những con người kỳ lạ tôi gặp, vẫn đang làm. Trên thực tế, giảng đường chính là nơi tôi bó hẹp bản thân mình nhất. Để đổi lấy mức lương hậu hĩnh, những phúc lợi tốt nhất và lịch trình làm việc nhàn nhã, tôi chỉ việc cung cấp những gói kiến thức nho nhỏ đã được chế biến sẵn, sau đó cho sinh viên những điểm số trên mức trung bình. Sự nghiệp giảng dạy của tôi chẳng hề giống với viễn cảnh tôi hằng mơ ước khi còn là sinh viên – cùng nhau nỗ lực theo đuổi những ý tưởng mới. Tâm trí tôi vẫn còn chút sức sống, nhưng chỉ hiện lên ở một góc nhỏ trong đời sống học thuật của tôi. Tất nhiên, các em sinh viên không hề thấy được điều đó. Tôi đã học được từ các thầy các cô cách thức đọc, tư duy và cảm nhận, tôi đã bắt chước họ thật cẩn thận. Thầy trò tôi rất hiểu nhau và sự gần gũi này giúp các thầy cô tìm ra được cách thích hợp để động viên hay khuyến cáo chúng tôi. Vậy các sinh viên học được gì từ tôi? Thành thật mà nói thì chẳng nhiều nhặn gì. Không phải vì tôi không cố gắng hay không quan tâm tới các em, mà bởi thể chế giáo dục với những kỳ vọng hết sức cơ bản này khiến cho việc học đúng nghĩa gần như bất khả thi. Hiếm thấy một sinh viên nào dám vượt ra ngoài nền văn hóa học thuật ẩn danh ấy, để tìm kiếm sự cộng tác cũng như hướng dẫn cho họ.
