NỀN TẢNG VĂN HÓA CHO SỰ THỊNH VƯỢNG

Trích: Dựng Lại Con Người, Lời Của Kẻ Sĩ; NXB Tổng hợp Tp.HCM, 2021

12/10/2025
77 lượt xem

Ảo ảnh phồn vinh 

Trong khi nợ công và nợ xấu là những con số khổng lồ, liệu có ai thắc mắc việc xe hơi vẫn chiếm đầu số trong những mặt hàng nhập siêu? Không chỉ Thủ đô Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh, mà ở mọi tỉnh thành, nghèo hay rất nghèo, đều có những “đại gia” (không cứ là doanh nhân) cỡi siêu xe Lamborghini, Bentley, thậm chí cả Rolls Royce… 

Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu ô tô nguyên chiếc tính đến 15/4/2021 là 42.663 chiếc, tăng 44,8% về lượng và 50% so với cùng kỳ 2020. Trong công sở, văn phòng, người ta nói chuyện đổi “con xe” này, thay căn hộ nọ… như mua một món quà nhỏ, Đâu đâu cũng bàn căn hộ triệu đô, ai ai cũng mơ sống trong các tòa nhà cao cấp với bảo vệ gác cửa, hồ bơi, siêu thị bên trong. Người ta đua nhau sắm sửa, xây dựng những villa, thậm chí biệt phủ như các quan chức một tỉnh nghèo phía Bắc bị dư luận xầm xì đòi thanh tra vào cuộc; vì một ông công chức, về lý thuyết, không thể có cái nhà 13.000m2 được. Đằng này, lương ba cọc ba đồng mà ông tậu bao nhiêu là đất, là nhà, chưa kể của chìm của nổi. 

Xã hội xa hoa có song hành cùng sự phát triển kinh tế chung hay không? E rằng không! Nếu không muốn nói ngân sách đang phải oằn mình vì nợ quá hạn hay đến hạn. Những năm qua, khi kinh tế “bong bóng” được “bơm” lên, hầu hết người Việt tỉnh táo đều choáng ngợp trước xã hội phù hoa. Tâm lý sính hàng ngoại, hàng hiệu không chỉ có ở tầng lớp giàu mà cả trung lưu hay thấp hơn cũng có; và người ta đua nhau chạy theo những giá trị ảo. 

Kinh tế nào, văn hóa ấy… 

Văn hóa và kinh tế, theo lý thuyết, có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau. Kinh tế phải đảm bảo cho nhu cầu sống tối thiểu của con người, sau đó mới đảm bảo điều kiện cho văn hóa phát triển. Kinh tế không thể phát triển nếu không có một nền tảng văn hóa, đồng thời văn hóa không chỉ phản ánh kinh tế mà còn là nhân tố tác động đến phát triển kinh tế. Với mối quan hệ đó, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động hiệu quả, có tốc độ cao chừng nào quốc gia đó đạt được sự phát triển kết hợp hài hòa giữa kinh tế với văn hóa. 

Với GDP/đầu người chỉ vào khoảng trên dưới 3500 USD mà chúng ta tiêu xài như một dân tộc đã phát triển thì e rằng đó là sự “vung tay quá trán”. Cách đây gần 20 năm, một nhà lãnh đạo Hàn Quốc đã kêu gọi dân chúng xứ họ nên xem lại việc chi tiêu vì GDP/đầu người của họ lúc đó chỉ khoảng 6.000 USD nhưng một bộ phận dân chúng Hàn Quốc lúc bấy giờ – đặc biệt là thế hệ trẻ, mới lớn không thấy sự hy sinh, thắt lưng buộc bụng của thế hệ cha anh – lại tiêu xài như thể các quốc gia Tây Âu hay Mỹ… Đã có người nhận định “Thông minh là sống đúng sức mình” và khuyên chúng ta nên xây dựng “một nền kinh tế thông minh, điềm đạm”. 

Xã hội nào cũng phải xây dựng trên một tầng lớp chủ yếu. Các nước Tây Âu và Mỹ lấy nền tảng là tầng lớp thị dân trung lưu vốn chiếm đa số tại nước họ. Ở Việt Nam, dù chúng ta nói công nhân là giai cấp lãnh đạo, chứ thực chất, tầng lớp chủ yếu vẫn là giai cấp nông dân khi họ chiếm tới 60 – 70% dân số, bất chấp xu hướng thị dân hóa đang phát triển. Chúng ta đang sống vượt thu nhập của mình! Kết quả là “… rất nhiều tinh hoa kinh doanh Việt, rất nhiều vốn liếng ít ỏi Việt, đã được tập trung vào thị trường xa hoa, đây vừa là thị phần vô cùng nhỏ bé trong toàn bộ nền kinh tế, lại vừa làm thất thoát rất nhiều tiền của để nhập khẩu hoặc tiêu dùng ở bên ngoài quốc gia. Còn một thị phần rất lớn các nhu yếu phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu thì ít được lưu tâm, để sau cùng bị các công ty nước ngoài thâu tóm hết như hiện đang thấy” (Lưu Vĩ Lân, “Để có một nền kinh tế thông minh – điềm đạm” Báo Tuổi Trẻ, 25/11/2012). 

Ngày xưa, tuy cha ông ta không học về kinh tế, nhưng theo Lưu Vĩ Lân, “chúng ta đã có một xã hội thanh đạm và trầm tĩnh phù hợp với thực tế đó. Cha ông ta đã chứng minh rằng dù hầu hết là nông dân, công nhân, thị dân nghèo và tầng lớp trung lưu thấp, chúng ta có thể không giàu, sức mua chưa cao nhưng vẫn có thể có một phong cách tiêu dùng tao nhã, trí thức”. 

Chợt nhớ những bài giảng văn ngày trước, chúng ta nghe các cụ ngâm nga rằng: 

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa 

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua… 

(Nguyễn Khuyến)

nhưng vẫn vui, vì: 

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá 

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao… 

(Nguyễn Bỉnh Khiêm) 

Các cụ thông tuệ, không sống vượt trên thu nhập của mình, không đòi hỏi những nhu cầu mà biết chắc rằng sẽ phải bươn chải nhiều hơn mới có. Thế nên bị phê phán rằng nghèo vì tư duy “khói lam chiều, lũy tre xanh.. ” thiếu ý chí tiến thủ. Nhưng trong khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, kinh tế hàng hóa trì trệ thương nghiệp chưa phát triển thì ít ra sống như vậy không chụp giựt, không phải dùng những phương tiện phạm pháp để lừa đảo, cướp đoạt của người khác, giữ cho lương tâm thanh thản. 

Những nhà kinh tế hiện nay cũng biết rằng “Hiện tượng phân hóa mạnh như thế ở các mảng thị trường vốn đã nhỏ bé, các đứt gãy lớn trong sức mua… sẽ làm giảm khả năng phát triển mạnh của thương mại, dịch vụ và sản xuất. Hãy để ý, các chuỗi thương hiệu lớn hiện chỉ có thể quẩn quanh trong vành đai trung tâm với chục cửa hàng là hết “không gian sinh tồn, bước ra khỏi vành đai đó sức mua giảm sút và khó mà tồn tại nổi” (Lưu Vĩ Lân, bài đã dẫn). 

Mà cũng chỉ có hai vành đai thượng lưu nằm ở Sài Gòn và Hà Nội, ngay cả Đà Nẵng hay Hải Phòng còn chưa có, thì khó có thể nói chúng ta đã đạt được mức của một thị trường trung lưu chứ nói gì đến hai chữ xa hoa. 

Văn hóa trước hết có chức năng hỗ trợ phát triển kinh tế và hướng dẫn hành vi người tiêu dùng. Không phải tự nhiên mà Hàn Quốc xây dựng được chủ nghĩa tiêu thụ yêu nước (patriotic consumerism), khiến cho doanh nghiệp nội địa phát triển hình thành các tập đoàn (chaebol) toàn cầu như LG, Samsung, Hyundai…

Bà Caroline Kennedy, một nữ luật sư, con gái cố Tổng thống Kennedy, đã nói: “Cũng quan trọng như việc cần có một nền kinh tế thịnh vượng, chúng ta còn cần sự thịnh vượng của lòng tốt và sự khiêm cung”.

Chúng ta biết nhà đầu tư nổi tiếng nhất thế giới, tỷ phú, ông chủ của tập đoàn khổng lồ Berkshire Hathaway, Warren Bufett, hiện đang nắm tài sản trị giá gần 100 tỷ USD. Nhưng “nhà tiên tri xứ Omaha” cho biết rằng ông vẫn hạnh phúc với 100.000 USD mỗi năm. Trong một bài trả lời phỏng vấn của PBS Newshour, Warren Bufett phát biểu: “Về cơ bản, tôi có thể mua bất cứ thứ gì. Tôi đã từng đi trên những chiếc du thuyền sang trọng, và từng sống với người có 10 căn nhà ở khắp mọi nơi và có tất cả mọi thứ. Nhưng tôi vẫn sống tại căn nhà mà tôi mua từ năm 1958. Nếu tôi tiêu 100 triệu USD vào một ngôi nhà mà có thể khiến tôi hạnh phúc hơn, tôi sẽ làm điều đó, nhưng đối với tôi, được sống trong ngôi nhà hiện tôi đang ở là hạnh phúc nhất bởi nó chứa đựng những ký ức, đó là nơi mà mọi người sẽ quay trở về. 

Ngoài việc vẫn sống trong một căn nhà mua từ rất lâu và không mấy xa hoa, các bữa ăn của Warren cũng rất giản dị. Ông thường ăn sáng với mức giá khoảng 3 USD. Buffett cũng chia sẻ ông sẽ không để lại tài sản cho ba người con của mình bởi không muốn họ lười biếng. “Nếu bạn vô cùng giàu có, và bạn có con, theo tôi bạn cho họ đủ để họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, nhưng không phải là tất cả để họ không cần phải làm gì”, ông nói. Warren Buffett là đồng sáng lập quỹ từ thiện Giving Pledge với Bill Gates, người thành lập Microsoft. Những tỷ phú này đều cam kết sẽ dành đến 90% hoặc hơn nữa trong tài sản của họ để làm từ thiện. 

Chúng ta hay nói kinh tế thị trường cũng có những mặt tiêu cực như các hoạt động của hệ thống kinh tế ngầm, buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, trốn thuế, kinh doanh trái phép… làm gia tăng sự băng hoại về đạo đức, tha hóa về lối sống của nhiều người trong xã hội. Kinh tế thị trường cũng dẫn đến tình trạng phân hóa, bất bình đẳng xã hội; tình trạng suy thoái và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường sống… Nhưng đó có khi chỉ là lý luận tạm an ủi hay có phần nào “ngụy biện” cho việc quản lý yếu kém, thiếu trách nhiệm, dung túng tệ nạn của chúng ta mà thôi!

Định chế văn hóa nào cho thịnh vượng? 

Chúng ta biết UNESCO từng nhấn mạnh: “Văn hóa là động lực của kinh tế. Nói cách khác, văn hóa quyết định hướng đi cho kinh tế và xã hội. 

Bàn về ba lĩnh vực của đời sống – thiên nhiên, con người và tôn giáo – tác giả Nguyễn Thế Đăng nhận định: Văn hóa là sự thăng hoa, sự nhân tính hóa những hiểu biết về thế giới vật lý, thế giới tâm lý, làm cho con người ngày càng nhân tính hơn, càng đẹp hơn, càng đúng hơn, càng tốt lành hơn (Chân, Thiện, Mỹ). Văn hóa là để biết sống. Sử dụng và biết sống với thiên nhiên (Địa), biết sống với người khác (Nhân) và biết sống với cái siêu việt, cái thiêng liêng ở trong chính mình (Thiên) (Tóm tắt theo Nguyễn Thế Đăng – “Xã hội hài hòa” – Trích trong Con người toàn diện – Hạnh phúc toàn diện, các tr. 176 – 183, Nxb. Từ điển Bách khoa). 

Chúng ta không thể tách rời mối liên hệ giữa hạnh phúc của chúng ta với hạnh phúc cộng đồng. Phải chăng đó là ý nghĩa của tương tức tương sinh (interbeing – tiếp hiện) trong nhà Phật. Một kẻ giàu có sống ích kỷ giữa quần sinh khác nào Robinson Crusoe trên hoang đảo. Anh phô trương sự giàu có mà không hề quan tâm đến sự nghèo khó của cộng đồng thì hạnh phúc ấy chỉ đơn giản là sự khoái lạc, sự thỏa mãn thói phô trương. Chưa kể cái giàu của anh do nhiều yếu tố bất minh và thậm chí phạm pháp, do tham nhũng, do buôn lậu… 

Bất cứ một nền kinh tế nào mà nền tảng văn hóa của nó không lấy yếu tố con người làm trọng tâm sẽ thất bại. Vì sự phồn vinh là nhằm giúp cho con người sống tốt hơn, vui hơn và chan hòa hơn. Tìm hiểu về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, Francis X. Hezel đặt những câu hỏi: Tại sao một số quốc gia phát triển tốt, nhưng số khác lại thất bại, khi mà những điều kiện tiên quyết đều hội đủ? Giải thích thế nào về những quốc gia châu Phi, khi nhận rất nhiều viện trợ để phát triển, hay những quốc gia như Indonesia hay Philippines (Việt Nam có thể rơi vào trường hợp này chăng?) với nguồn lực tài nguyên dồi dào và dân chúng có học vấn, nhưng vẫn trì trệ trong phát triển? 

Đây cũng là tình trạng chung của các nước ven Thái Bình Dương? Các nhà kinh tế giải thích về sự mất cân đối trong các điều kiện phát triển: trong đó việc lãnh đạo sáng suốt được xem như điều kiện hàng đầu; hệ thống chính trị ổn định; luật pháp ban hành rõ ràng và có tính thực thi cao; những hợp đồng hay thỏa thuận đều được tôn trọng; quan chức không tham nhũng. Ngoài ra đất đai luôn có mức giá bán hay cho thuê vừa phải, đầu tư nước ngoài được bảo vệ và khuyến khích; tránh tệ quan liêu trong thủ tục hành chính và cấp giấy phép. Còn một số vấn đề căn bản cần nêu lên ví dụ như thiểu số nhân dân phát triển quá mức để đa số còn lại sống chật vật. 

Amy Chua trong tác phẩm Thế giới dầu sôi lửa bỏng (World on Fire) nêu lên tình trạng người gốc Hoa ở Philippines và Indonesia, tuy chiếm tỷ lệ ít hơn 2% dân số nhưng lại quản lý hay chiếm hữu 60% nền kinh tế tư nhân, bao gồm 4 hãng hàng không lớn nhất và hầu hết khách sạn, ngân hàng, trung tâm thương mại. Tình trạng này cũng đang diễn ra ở các quốc gia Đông Nam Á khác như Thái Lan, Miến Điện và Mã Lai… 

Còn Việt Nam chúng ta thì sao, liệu “nhóm lợi ích” như các đại biểu Quốc hội nêu ra chiếm hữu bao nhiêu phần trăm kinh tế tư nhân và cả quốc doanh? Những định chế như vừa nêu trong xu thể mới không kích thích tăng trưởng kinh tế vì hệ thống luật pháp đáng tin cậy, chính trị ổn định, thị trường vận hành tốt chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để kinh tế “cất cánh”. 

Ở Anh quốc, người ta nhận thức về sự thay đổi tịnh tiến những giá trị văn hóa sâu sắc, nhất là về ý thức cạnh tranh và đạo đức nghề nghiệp mạnh mẽ, những yếu tố cần thiết khi cuộc cách mạng công nghệ bùng nổ ảnh hưởng đến toàn xã hội. Một xã hội mà bạo lực dù đã giảm sút, tỷ lệ sát nhân cũng thấp, người ta khấm khá hơn nhưng phải cạnh tranh với nhau kịch liệt hơn, trí thức hơn và đòi hỏi kiên nhẫn hơn! Những phẩm chất này cùng với sự phát triển tầng lớp trung lưu, cho phép người ta có lợi thế cạnh tranh, phản ứng nhanh hơn, sống có mục đích rõ ràng ngay từ thời tuổi trẻ và thích ứng ở nhiều môi trường khác nhau. 

Người ta nêu ví dụ tại sao cuộc Cách mạng Công nghiệp ở Anh đầu thế kỷ XIX lại thành công vượt bậc mà đến khi đưa vào Ấn Độ lại không đạt được kết quả mong muốn. Đó là vì năng suất công nhân Ấn Độ quá thấp so với công nhân Anh dù lương chỉ bằng 1/4, chưa kể chi phí của các nhà máy ở Anh hiệu quả hơn nhiều, làm tăng sức cạnh tranh đáng kể. Chúng ta chợt nhớ có người đã đánh giá một công nhân Singapore có năng suất gấp 22 lần công nhân Việt Nam (2018), chắc cũng vì những lý do tương tự. 

Trong một tác phẩm gần đây, Sự phồn vinh và khốn cùng của các quốc gia (The Wealth and Poverty of Nations), David Landes kết luận rằng yếu tố văn hóa thúc đẩy sự thành công kinh tế nhiều hơn bất kỳ yếu tố nào khác. Tính tiết kiệm, làm việc chăm chỉ, bền bỉ, trung thực và bao dung là những yếu tố tạo nên sự khác biệt. Max Weber thì cho rằng sau cùng thì thái độ xã hội và giá trị văn hóa có tiếng nói quyết định đến việc một nền kinh tế thành công hay thất bại. 

Nâng cao dân trí trở thành nguyên lý hành động của mọi người và của các cấp lãnh đạo. Con người là kết quả của sự tiến hóa thuần tâm, thuần vật và thuần sinh, là nguyên nhân đồng thời là kết quả của sự tiến hóa toàn diện, hướng thượng và hỗ tương của tất cả những yếu tố: nhân chủng, văn hóa, kinh tế, chính trị xã hội. Trong điều kiện chúng ta, phải có đường hướng rõ ràng, tránh tư tưởng hư vô bất định về mặt kinh tế, điều hợp cân đối và hợp lý bốn khu vực kinh tế: quốc doanh, tư nhân, địa phương và liên doanh nước ngoài, phát triển hài hòa và quân bình nông nghiệp và công nghiệp. 

Phân tích mọi mặt của đời sống của mình và những người chung quanh, gột rửa bệnh thái tâm lý xa hoa, tinh tiến về tri thức và nhận thức, tu dưỡng nếp sống mới, nhân sinh quan mới, tận dụng thời gian, vui hưởng cuộc sống thanh bạch hàng ngày, làm việc hết sức mình nhưng không thái quá, tri túc để biết sống nếp sống giản dị thanh đạm, phù hợp với mức thu nhập và điều kiện chung quanh, sống không tranh chấp, cùng nhau tiến bộ… Chúng ta hiểu rằng không bao giờ văn hóa suy đồi mà kinh tế phát triển. Văn hóa bao giờ cũng là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế; mặt khác, kinh tế phát triển là mảnh đất thuận lợi cho sự phát triển văn hóa của cộng đồng. Lịch sử thế giới cũng như nước Việt Nam đã chứng minh nguyên lý đó. 

Sự thịnh vượng kinh tế phải gắn với môi trường văn hóa – mang nặng tính nhân văn, tôn vinh các giá trị tốt đẹp của con người vì văn hóa như đã nói ở trên chính là động lực, còn những định chế của nó sẽ là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển. Nền tảng văn hóa cho sự phồn vinh cần phải quan tâm xây dựng với tất cả tỉnh thần trách nhiệm, nếu không chúng ta sẽ chẳng bao giờ có một nền kinh tế “thông minh, điềm đạm” như kỳ vọng.