NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CỦA NHÂN SINH

Trích: Toàn Chân Triết Luận; NXB Trẻ 2024

12/10/2025
82 lượt xem

Đạo đại, nhân tự tiểu chi, 

Đạo công, nhân tự tư chi, 

Đạo quán, nhân tự hiệp chi. 

(Lục Cửu Uyên) 

Trước kia, ta đã thấy: ngày mà ta tách phân làm một bản ngã riêng biệt với Vạn vật, ngày ấy ta khởi lần lo sợ… Chừng ấy mới có biết tư lự. Ấy là ngày mà trong Thánh kinh (bible) gọi rằng, ta bị đày ra khỏi vườn Cực lạc (Eden) là nơi ta sống với Vạn vật một cách tương ứng rất mật thiết. Nơi vườn Cực lạc ấy con người sống với thú dữ, mà vẫn không biết sợ… Bởi phải bị gạt ăn nhầm trái cấm của cây Thiện – Ác (arbre du Bien et du Mal), mới biết xấu, tốt, nhục, vinh, trái, phải… cho nên mới phải bị đày vào cõi thế giới tương quan để chịu các điều khổ tâm, vất vả… (1)

Chính ngày ấy là ngày mà những vấn đề triết lý (problèmes philosophiques) bắt đầu nảy sanh trong đời con người vậy, như vấn đề Công bình, Tự do, Trường sinh của Linh hồn, Sanh tử, Tạo hóa… Những vấn đề ấy, tự cổ chí kim, biết bao nhà triết học, siêu hình, tôn giáo tìm tâm giải quyết, nhưng vẫn tư lự phân vân, chưa nhứt định. Ta sở dĩ không giải quyết đặng, vì bởi ta chỉ căn cứ vào quan niệm lầm lạc rằng, cái Bản ngã là cái Chơn lý tuyệt đối. Ta chỉ lấy sự trừu tượng mơ màng, chớ không lấy cái lẽ thực hiện làm căn bản (se basant sur les speculations et non sur les faits). Lấy bản ngã làm cái cốt cho những vấn đề ấy; mà bản ngã là ảo vọng, thì những vấn đề ấy làm sao giải quyết cho đặng. Nếu ta ra một bài toán đố mà cái đề không đúng với sự thật, thì dầu ta có lấy hết lý luận mà giải; cũng không sao cho đặng. 

Tóm lại, cái Ta đây, khi phân tách ra làm một nhân vật riêng, không liên lạc gì đến Toàn thể nữa, thì như tự nhốt chặt vào một cái vỏ cứng không còn ăn chịu với Vũ trụ. 

Một mình hiu quạnh trong khoảng thời gian và không gian vô hạn, bấy giờ ta lấy làm hãi hùng lắm. Như người kia, lúc ngồi chơi với bóng mình, thì vô tâm, vui vẻ… Bỗng giựt mình tự hỏi: “Bóng này là ai?”.. chừng ấy mới có sanh ra cái lòng nghi sợ, chẳng biết bóng ấy có thể hại mình đặng chăng? Ta cũng vậy, ngày mà ta cho Vạn vật chung quanh ta là khác nhau, thì Vạn vật sẽ trở nên một thế giới đầy dẫy sự bí mật làm cho ta phải khủng khiếp. Những vấn đề triết lý quan trọng của nhân sinh nảy sanh trong tâm trí con người từ đây cốt để an ủi ta trong cái mê lầm của ngã chấp. (2)

NHẬP THẾ VÀ XUẤT THẾ 

Đã biết thế giới ngoại vật có thể hại cho ta, nhưng nếu ta còn giữ Xích tử chi tâm thì không hề biết lo sợ bao giờ, vì Tâm ta cùng Vạn vật là một, chỉ đến lúc ta thấy mình là riêng với Vạn vật, ta mới tìm thế mà tu giữ lấy thân và bênh vực lấy ta mà thôi. 

Đứng trước một vật lạ, mà ta nghĩ có thể hại cho ta, thường ta có hai cách đối phó để giữ thân: một là thâu cái đó làm của, hay là giết tan đi; hai là, trốn hoặc lánh nó! Những cử chỉ ấy đều do cái sợ mà ra. 

Bởi thế, con người xưa nay, kẻ thì lo thâu trữ của đời, người thì từ bỏ, lánh thân… không quan tâm gì đến thế sự. Thường ta gọi là Nhập thế và Xuất thế. Hai quan niệm ấy, chỉ do nơi cái lầm, rằng thế gian ngoại vật cùng ta là khác nhau vậy. 

Làm sao mà thâu đoạt hay từ bỏ một vật mà ta là nó, nó là ta? Cái ý thâu trữ hay từ bỏ, có ra chỉ lúc nào ta thấy ta khác biệt cùng Vạn vật… chớ khi ta rõ nó cùng ta là Một rồi, thì những tâm lý ấy không còn nghĩa lý gì là thật nữa. 

Bên Á Đông thì con người thường dùng cái thuyết Xuất thế, Bên Âu Tây thì dùng cái thuyết Nhập thế. Thường tình, ta cho kẻ Xuất thế là cao thượng đạo đức hơn người Nhập thế, đó là một sự mê lầm. Thế gian là đâu, ta là đâu mà hòng Nhập, Xuất

Nếu ta so sánh một ông đạo sĩ của ta, ly gia cát ái, xa lánh cõi đời, đứng ngoài thế tục, xóa bỏ những sự vui sướng xác thịt, để sống trầm tư mặc tưởng nơi hang sâu rừng thẳmg… với một ông đại phú gia Hoa Kỳ, suốt đời chỉ xung đột vất vả luôn luôn với người, không được một phút yên tĩnh; thì ta sẽ cho đó là hai cái tâm lý rất tương phản nhau là dường nào… Kỳ thật, hai nhân vật ấy chẳng có khác nhau chút nào về mặt tâm lý cả. 

Ý thâu trữ và ý từ bỏ thế gian, chẳng qua hai cái chứng của một tâm bệnh: tưởng lầm rằng mình là khác với Vạn vật

Vậy mà xưa nay, con người thường thường có ý trọng người xuất thế và khinh khi người nhập thế, có dè đâu những bực ấy đều lầm lạc mê muội như nhau… 

Những vấn đề Vật chất và Tinh thần, cổ kim con người cãi cọ tranh đấu mãi trong trường ngôn luận mà không một ai giải quyết đặng, chỉ phân vân lưỡng lự; – kẻ cho đời là giả, bỏ mà đi, người cho nó là thật, tìm mà thâu trữ, – vẫn tại cái đề cho ra không đúng với sự thật, như ta đã thấy trước kia. Lấy Bản ngã làm cái lý thật, tuyệt đích, rồi vịn đó để giải quyết những vấn đề của nhân sinh, đó là cái lầm của phần nhiều học giả xưa nay vậy. 

Tuy nhiên, có kẻ sẽ cho rằng: “Tuy đã biết người đã giải thoát đặng tư tâm rồi thì không còn thấy mình là khác biệt với Vạn vật vũ trụ, nên những vấn đề Nhập thế, Xuất thế không còn nghĩa lý gì với họ nữa cả. Song le, đó là để cho những bực siêu nhân, chớ đối với những bực tầm thường thời những hoàn cảnh ràng buộc của đời người đây, không phải là một sự trở ngại cho sự giải thoát hay sao? Phải có ở trong những cảnh huống khó khăn của sự đời mới rõ cái khó ấy…” 

Thật vậy, nếu lấy theo con mắt thường tình mà xem, thời câu hỏi này cũng có lắm ý nghĩa, nhưng nếu xét kỹ lại, thời đó là một việc mê lầm rất nặng của phần đông học giả, thường xem cõi đời và cảnh ngộ là một sự trở ngại rất lớn lao cho sự hoàn toàn giải thoát. Theo chánh lý thời chẳng phải hoàn cảnh của thế sự trở ngại cho sự giải thoát mà kỳ thật là tại nơi Tâm ta mắc cùng không mắc lấy mà thôi. Tâm ta thì thường trụ, vô biên vô lượng, chỉ vì ta chấp lầm cái thân vô thường, cái hoàn cảnh tạm thời và giả dối làm sự thật, nên phải liệt mình nô lệ lấy hoàn cảnh. Ta có thể ví cái Chơn tâm thường trụ ấy như nước. Dầu phải ở trong ve tròn hay ve vuông thời cũng tùy theo hình thức của ve mà có hình tròn hoặc hình vuông. Tuy nhiên, nước đựng trong mấy ve ấy vẫn là nước không hình trạng, không thay đổi, dầu có đem đổ vào thiên hình vạn trạng kiểu ve, nó cũng tùy theo hoàn cảnh mà lấy đủ thiên hình vạn trạng hình thức, nhưng trước sau chỉ giữ một cái tính bình đẳng như như không mắc cứng vào một hình thức nào cả! 

Có tích rằng: Xưa kia, bên Ấn Độ có một ông thầy tu, cho cuộc đời là giả, nên lập nguyện từ bỏ cả công danh sự nghiệp chỉ giữ lại cho minh có hai cái chăn mà thôi. Ngày kia, ông đi tìm một ông vua có tiếng là cao đệ trong đường Đạo học. Buổi nọ, trong lúc hai ông đang cùng nhau cãi luận về một vấn đề triết lý, dưới cội cây to, cách xa đến vua chừng hai ba trăm thước. Bỗng chốc cái đền nguy nga tráng lệ kia, phát cháy một cách rất dữ dội. Vị vua rất bình tĩnh dường như không có sự gì xảy đến cả, cứ thản nhiên bình luận đạo lý. Còn ông thầy tu thì tâm trí rối loạn, cặp mắt dòm chừng nơi chỗ hỏa tai hoài… Vì sao? Vì hồi sớm ông có phơi cái chăn của ông gần đấy. 

Tóm lại, chẳng phải sống trong cuộc đời danh lợi mà tâm ta phải bị mắc; cũng không phải nhờ xa lánh thế sự mà tâm ta hết bị mắc vào hoàn cảnh. Mắc cùng không mắc là tại nơi ta. Biết giữ cái Tâm thường trụ không cho bị vướng lấy hoàn cảnh nào cả, đó là cái mầu nhiệm của sự Giải thoát vậy. 

🍁🌞

Chú thích

(1) Xem quyển Toàn Chân pháp luận chương Bản ngã siêu hình, cùng một tác giả. 

(2) Tỷ như có kẻ hỏi ta: “Lông rắn, sừng ngựa, có thể nào chấp thành bút chăng?” Ta không xét lại cái câu hỏi có thật đúng với sự thật chăng? Lại chỉ lo tìm phương thế trả lời. Thì dầu lý luận có hoạt bát đi mấy cũng không sao giải quyết cho đúng với sự thật đặng. Bản ngã tự nó là không có thật, như “rắn đâu có lông, ngựa đâu có sừng” thế ta làm sao cắt nghĩa và giải quyết vấn đề ấy… Căn cứ vào Bản ngã để trả lời, là lầm. 

Trước khi trả lời, ta phải xét lại cái đầu đề, coi có trúng với lẽ thật chăng – chớ vội trả lời, dụng tâm vào một điều huyền ảo. Như ta sẽ thấy sau đây, những vấn đề quan trọng của nhân sinh sở dĩ không thể giải quyết đặng là do nơi cớ ấy.