ĐỂ HOÀN THIỆN “CHẤT NGƯỜI”
Trích: Cân Bằng Trong Khủng Hoảng; NXB Hội Nhà Văn; Công ty TNHH Phan Lệ & Friends, 2024

NGUYỄN VĨNH NGUYÊN (NVN): Tôi sẽ nói rằng chúng ta lại sắp sửa rơi vào một cái bẫy đạo đức khi bàn về lòng trắc ẩn. Nhưng không lẽ chúng ta vì sợ sụp hố mà không bằng cách nào đó đặt chân vào (dù rón rén hay liều lĩnh) địa hạt của một vấn đề ít nhiều hệ trọng trong đời sống tinh thần và lối sống giữa kỷ nguyên công nghệ và tiêu dùng.
Dường như con người đã lạnh lùng hơn nhiều? Anh sẽ phản bác ngay, không, không phải như vậy, rõ ràng con người giàu cảm xúc hơn, quan tâm tới nhau hơn, không tin hãy lên mạng mà xem; không tin hãy xem người ta chằm chằm mắt nhìn vào điện thoại và xót xa, thả vô vàn icon thương xót trước bản tin về một con chó hoang bị ngược đãi hay một tình cảnh đáng thương của đồng loại trong chiến tranh, thiên tai.
Những thông tin đó được chia sẻ và nhanh chóng lan rộng, nhận vô vàn trái tim icon.
Đâu có phải bình thường.
Anh sẽ bảo tôi rằng đừng bi đát trong cái nhìn như thế, lòng trắc ẩn, đâu có thiếu trong mọi ngóc ngách cuộc sống ngày nay.
NGUYỄN TƯỜNG BÁCH (NTB): Anh đã nhập đề bằng cách mượn cả phần nào cái tính bình thản lạc quan của tôi để tạo ra một phân thân mà có lúc chính tôi cũng thường tự đối thoại: Một mặt, thấy lòng trắc ẩn chan chứa trong cuộc sống chúng ta, nhưng mặt kia cũng có sự hoài nghi.
Có lúc chính tôi cũng nghi ngờ mình nếu không tự hỏi lại bản chất của lòng trắc ấn là gì? Nó thực sự quan trọng đến thế nào trong sự sống của nhân loại? Vì sao nó lại khó nhận diện như vậy?
HÀNH TRÌNH CỦA PHẬT HAY CHÚA LUÔN LUÔN XUẤT PHÁT TỪ SỰ CHỨNG KIẾN CẢNH KHỔ CỦA CON NGƯỜI, CỦA CUỘC ĐỜI.
NVN: Như vậy, có lẽ phải trở về với một khía cạnh quan trọng của lòng trắc ẩn: Đâu là gốc rễ của lòng nhân ái, tinh thân nhân đạo, điều giúp phân biệt con người với các động vật khác.
Đi từ cách lý giải của Thiên Chúa giáo, thì lòng trắc ẩn, nói theo ngôn ngữ Kinh Thánh, được Thánh Linh đặt vào con người từ sớm. Đó là khi chính loài thọ tạo nhìn thấy sự lõa lồ nơi kẻ khác cũng giống với sự lõa lồ nơi bản thân. “Nó” đồng cảm trước sự rách rưới đáng thương ngay đêm trước khi rời xa địa đàng. Nó nhìn thấy sự trần trụi của thân phận mình thông qua tha nhân. Nếu nó ở lại địa đàng, nó không có bài học nào về lòng trắc ẩn cả, vì mãi mãi thực tiễn là một cảnh giới lý tưởng phi thực.
Khi các câu chuyện thần thoại Hy-La được truyền tụng, các vị thần cũng mang nhân tính của con người, đủ hỉ nộ ái ố, nhưng, điều làm cho các vị thần trở nên nhân từ nhất, là lòng trắc ẩn không chỉ trong các tương quan của thần thánh với nhau, mà cả trong tương quan với con người, muôn loài. Các vị thần soi bóng mình vào chiếc gương nhân tính, nên các vị đầy lòng trắc ẩn.
Nếu một Thiên Chúa chỉ biết giận dữ và trừng phạt vì đám thọ tạo không làm theo ý mình, suốt ngày ngỗ ngược và bội phản, thì cho dù Ngài có đáng sợ đến đâu, cũng không ai tin. Phải là một Thiên Chúa có lòng trắc ẩn, và trắc ẩn trong mọi hoàn cảnh của con người, thì đó mới là vị Thiên Chúa cần cho mặt đất này.
Vậy trắc ẩn là gì mà quan trọng vậy? Đó là thứ đặt con người làm con người trong “Nhân đạo” và đặt thần thánh trong ý nghĩa tối thượng “Thiên đạo”. Sở dĩ quỷ dữ là quỷ dữ bởi vì chúng không có lòng trắc ẩn. Chúng không tự thấy nỗi khổ đau của mình và không thấy nơi sự khổ đau của kẻ khác sự rung động và xót thương nào.
Hành trình về phương Nam của cậu bé Sudhana trong bản Kinh Hoa Nghiêm được viết từ 1.600 năm trước vẫn âm vang những trải nghiệm thâm viễn, ở đó con người khâu kết những tràng hoa tâm bằng các pháp thoại về chứng ngộ từ lòng trắc ẩn. Con đường xuất gia của Thái tử Tất Đạt Đa, con đường rao giảng và làm phép lạ của Chúa Jesus sẽ không đi tới đâu cả nếu không được đặt trên sự quán chiếu về nỗi khổ con người và có bổn phận hóa giải.
Khởi đi từ cao điểm của lòng trắc ẩn, thì mới có giải thoát, giác ngộ, cứu độ.
Và chẳng phải từ bình minh nhân loại, những câu chuyện cổ kể về sự xung đột căn bản thiện-ác phổ quát đã luôn hướng con người đến một cốt lõi: Nhìn thấy nỗi đau khổ của tha nhân và phát tâm hóa giải khổ đau!
NTB: Đúng là có nỗi khổ của con người mới có khái niệm “trắc ẩn”. Lòng “từ”, lòng “bi” trong Phật giáo là sự xót thương, sự đồng cảm, sẵn sàng chia sẻ trước cảnh khổ của đồng loại. Hành trình của Phật hay Chúa luôn luôn xuất phát từ sự chứng kiến cảnh khổ của con người, của cuộc đời.
Hoàn toàn đồng ý với anh về nhận thức này, tôi cũng cho rằng lòng trắc ẩn là phản ứng tự nhiên của một tâm thức lành mạnh trước nỗi khổ của tha nhân. Và lòng trắc ẩn cũng không dừng ở chỗ thụ động ngồi im mà nó chính là động lực làm con người hành động, khiến ta phải làm một cái gì đó để giúp đỡ người khác. Đối với bậc thánh nhân thì lòng trắc ẩn là động lực để các vị lên đường đi tìm các con đường giải thoát toàn triệt nhất, đó là sự giải thoát mọi khổ đau. Thế nên lòng trắc ẩn có hai mặt, đối với người thường cũng như đối với thánh nhân, một mặt là cảm thông, mặt kia là hành động.
Chúng tôi tại phương Tây chỉ là người bình thường, cũng có lòng trắc ẩn, có “cảm thông” chẳng hạn với một thiên tai tại châu Phi, và “hành động” của chúng tôi thường là chuyển một số tiền to nhỏ cho các cơ quan cứu trợ. Tại Việt Nam, hình ảnh trắc ẩn làm tôi nhớ mãi là trong đại dịch Covid-19, bà con tự động mang thức ăn thức uống ra ngoài đường tiếp tế cho đoàn người về quê trốn dịch. Lòng trắc ẩn có mặt khắp nơi trong xã hội, từ những người bé nhỏ nhất đến các thánh nhân. Và theo tôi thì lòng trắc ẩn của những con người bé nhỏ vô danh càng làm ta dễ xúc động và thuyết phục hơn hết.
Nhưng, chuyện trò với anh, tôi quan tâm đến một vấn để tâm lý chiều sâu. Đó là câu hỏi, lòng trắc ẩn là một giá trị tự thân của tâm thức con người, lúc cha sinh mẹ đẻ đã có sẵn hay liệu lòng trắc ẩn được sinh ra do giáo dục của gia đình, do ảnh hưởng của xã hội? Anh nghĩ sao? Và câu hỏi kế tiếp xem ra còn phức tạp hơn, đó là tại sao lòng trắc ẩn biến mất trong một số tình huống hay trong một số người? Tại sao có người thích thú hay thậm chí khoái cảm khi thấy người khác đau khổ?
NVN: Tôi nghĩ sẽ không có một câu trả lời chung quyết cho các câu hỏi mà anh nêu ra. Bởi vấn đề “nhân chi sơ tánh bổn…” thiện hay ác đã được cả phương Đông lẫn phương Tây dò tìm, lập thuyết, chứng minh, khẳng định và tranh luận mãi… nhưng nói cho cùng, sẽ không có câu trả lời mang tính chính xác như giải một công thức giản đơn. Con người, xa hơn, tâm trí và tình cảm con người là một vũ trụ vô cùng phức tạp.
Nhưng dẫu vậy, về cá nhân tôi, tôi không cho rằng lòng trắc ẩn như một thứ bản năng tự thân, sinh ra đã có sẵn. Thậm chí, nó đi ngược với nhiều thứ mà khi con người sinh ra đã có sẵn, như bản năng sinh tồn, bản năng chiếm hữu, bản năng chiến đấu và ham thích thống trị. Tôi nghĩ lòng trắc ẩn ở phía-bên-này, là để điều chỉnh, uốn nắn các dạng bản năng khiến con người trở nên ái kỷ phía-bên-kia.
Lòng trắc ẩn – là thứ được ăn sâu vào nội thức con người, hình thành nhận thức và triển khai hành động. Ban đầu, là từ việc tiếp nhận thông qua các “hình mẫu” củng cố giá trị hướng đến tốt lành trong văn hóa cộng đồng; sau đó, là những bài học kinh nghiệm được đúc kết qua quá trình giáo dục, khai sáng mà một cá nhân được thụ hưởng. Một đứa bé mới sinh, lúc đói có khi nổi cáu gào thét phản ứng, thậm chí có thể cào vào mặt cha mẹ nếu không kịp cho ăn hay cho bú. Nhưng lớn lên, nó dần học biết rằng sự đợi chờ và “chịu khó” là cần thiết khi ngày càng nhận ra người khác phải có thời gian chuẩn bị, có nỗ lực và hy sinh. Trong một số trường hợp, nó còn biết thương người mẹ, người cha phải gác nhiều thứ lại để ưu tiên chuyện cái ăn, cái mặc cho nó. Nó cảm nhận được trong từng bài học cuộc sống, để khi bước ra đời, thấy một người đang đau khổ vì con cái, thay vì đòi hỏi hay sinh lòng chiếm đoạt cả thứ người đó đang có hoặc chờ đợi người đó phải phục vụ mình, thì nó biết cảm thông để phục vụ và chia sẻ. Hay ít ra là không thể đòi hỏi gì hơn ở kẻ yếu thế, lâm nguy.
Đời sống văn hóa lành mạnh sẽ giúp bồi tụ, phát huy thiện căn trong con người, để hệ thống giá trị đạo đức được hình thành. Nó dần thoát khỏi bản năng hung hăng vị kỷ để nhìn cuộc đời với nhãn quan bao dung và yêu thương.
Những phản xạ rung động trước nỗi đau của đồng loại, bảo vệ đồng loại trong nguy nan thì thú vật như cá heo, tinh tinh, chó hay đôi khi chim chóc cũng có được. Nhưng đó không gì hơn là bản năng bảo vệ bầy đàn. Trong khi đó, con người, bằng văn hóa, có thể nhìn thấu suốt suy nghĩ và hành vi trắc ẩn của mình, thì “nó” biết, đó là một hệ thống suy tư và hành xử có tính xã hội. Thông qua lòng trắc ẩn, người ta không chỉ hiểu và nâng đỡ tha nhân mà còn tự làm giàu có phẩm giá, nội tâm và hoàn thiện con người xã hội của mình.
Vậy từ đây, ta đi đến với nhóm câu hỏi thứ hai của anh. Thay vì đưa ra câu trả lời “theo tôi” có bề giáo điều không phải phép, tôi xin dẫn lại một tình huống được triết gia Frédéric Lenoir viết trong cuốn Du bonheur (nhan đề tiếng Việt: Đi tìm hạnh phúc)’). Triết gia Pháp kể rằng, một lần kia ông đi dự một hội nghị bàn tròn bàn về hạnh phúc ở Fez (Maroc) do nhà nhân loại học Faouzi Skali tổ chức, ông André Azoulay, cố vấn của nhà vua Maroc, đã đặt ra câu hỏi: “Liệu chúng ta có thể hạnh phúc được không trước một thế giới đau khổ và bi thương?” Có, trăm lần có – Frédéric Lenoir khẳng định không do dự. “Bởi hạnh phúc là thứ có tính lan tỏa. Ta càng hạnh phúc, ta càng giúp những người quanh mình hạnh phúc. Từ bỏ hoàn toàn hạnh phúc cá nhân để cảm thông hoặc trắc ẩn với những người đau khổ làm gì nếu điều đó không giúp ích gì cho họ? Điều quan trọng không phải là khước từ hạnh phúc mà là hành động và nỗ lực để thế giới tốt đẹp hơn, và không xây dựng hạnh phúc của bản thân bằng cách làm tổn hại hạnh phúc của người khác”, ông viết trong cuốn sách nói trên.
Ở đây, tôi nhận thấy có một cách nhìn nhận lòng trắc ẩn thông qua “hành động và nỗ lực để thế giới tốt đẹp hơn, và không xây dựng hạnh phúc của bản thân bằng cách làm tổn hại hạnh phúc của người khác”.
Một suy tư về lòng trắc ẩn sáng sủa và thiết thực, phù hợp với bối cảnh thế giới hiện đại. Vậy thì trở lại với lập luận ban đầu, cái mà ban sơ cuộc đời, những đứa bé học được ở cộng đồng về lòng trắc ẩn đó không phải là vẻ mặt sầu thảm suy nhược trước nỗi khổ thiên hạ (như định nghĩa về quân tử ngày xưa trong Nho giáo: Lo trước cái lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ – Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc) mà là hành động thế nào để “giúp ích gì cho họ” cụ thể về vật chất cũng như tinh thần. Một đứa bé lớn lên trong môi trường tốt, thấy cách người ta đối đãi, hành xử với nhau theo lối vị tha, lặp đi lặp lại, thì nó sẽ làm theo để hài hòa với “chuẩn mực” hay “mô thức hành vi” cộng đồng, nó thấy rất tự nhiên trong việc cúi xuống đỡ nâng cho một kẻ yếu thế hơn mình.
Đôi khi sự đau buồn hay biểu hiện của nó chỉ chứng tỏ ta còn nhạy cảm với nỗi đau kẻ khác, cũng có thể là để giải tỏa ẩn ức thương cảm, nhưng nó không đủ để gọi là lòng trắc ẩn khi các phức cảm đó không được dẫn đạo một cách mạch lạc bởi một hệ thống triết lý giá trị khiến cá nhân đó phải đi đến hành động vị tha. Nhưng nói như thế cũng không có nghĩa là phủ định “những phản xạ” rung động thuộc về tình cảm con người.
Tôi nghĩ phương Tây chắc sẽ lý tính và thực tế hơn, nên sẽ phân tích lòng trắc ẩn ở khía cạnh hành động nhiều hơn. Phải vậy chăng?
NTB: Đoạn này của anh rất hùng biện. Và ý tưởng cũng rất dứt khoát. Theo đó, lòng trắc ẩn của con người xuất phát từ văn hóa, nhận thức, hiểu biết. Nếu thiếu vắng những thứ đó con người sẽ nằm mãi trong bản năng tranh đoạt và chiếm hữu. Tôi đồng ý hầu như hoàn toàn với anh.
Đồng thời, tôi đâm ra phân vân, ta định nghĩa lòng “trắc ẩn” như thế nào? Hãy thử xem đời sống thú vật. Một con gà mẹ tranh đấu quyết liệt vì đàn gà con, phải chăng đó là bản năng sinh tồn, phải chăng ta chưa thể gọi là lòng trắc ẩn. Con cọp ăn thịt con nai, ta cũng không thể nói nó “tàn nhẫn”, không thể nói nó không có lòng trắc ẩn. Mọi sinh vật, từ con gà đến con cọp đều không hề biết đến sự tồn tại của chính mình, không biết có một cá thể cọp hay gà. Chúng chỉ hành động theo bản năng. Theo tôi và bổ túc ý của anh, lòng trắc ẩn chỉ có thể có hay không có nơi con người, một loài sinh vật đặc biệt biết có mình hiện diện trên thế giới, biết rằng có người có ta, có xã hội xung quanh. Trong xã hội có-người-có-ta đó thì có khi hiện điện lòng trắc ấn, có khi vắng nó. Và hoàn toàn đồng ý với anh, khi con người thấy tha nhân là thù địch, là đối phương, là kẻ cạnh tranh, khi thấy quyền lợi của cá thể mình bị đe dọa, khi đó vắng bóng lòng trắc ẩn. Ngược lại khi con người thấy xã hội là một thể liên kết đầy tình thân ái, với sự hiểu biết cảm thông lẫn nhau, thậm chí cùng sở thích hay lo âu như nhau, thì nơi đó có lòng trắc ẩn.