DR. PAUL BRUNTON
Trích: Đông Phương Huyền Bí; Nguyên tác A Search In Secret India; Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính; NXB. Văn Hóa Thông Tin
Paul Brunton là bút danh của Raphael Hurst (21 tháng 10 năm 1898 – 27 tháng 7 năm 1981), một tác giả viết sách tâm linh người Anh. Ông được biết đến nhiều nhất với tư cách là một trong những người đầu tiên phổ biến chủ nghĩa tâm linh Tân Ấn Độ giáo trong chủ nghĩa bí truyền phương Tây, đặc biệt là qua cuốn sách bán chạy nhất A Search in Secret India (1934) đã được dịch sang hơn 20 thứ tiếng.
Brunton là người đề xuất học thuyết “Chủ nghĩa tinh thần”, hay Chủ nghĩa tinh thần phương Đông để phân biệt với chủ nghĩa duy tâm chủ quan của truyền thống phương Tây. Brunton giải thích học thuyết của mình về Tinh thần luận trong The Hidden Teaching Beyond Yoga (1941, ấn bản mới 2015 North Atlantic Books), Trí tuệ của Bản ngã (1943, ấn bản mới 2015 North Atlantic Books) và trong di cảo xuất bản The Notebooks of Paul Brunton gồm 16 tập (Larson Publications, 1984–88). Ngoài ra ông cũng viết và xuất bản khoảng gần 20 quyển sách về tâm linh trong suốt cuộc đời mình.
Năm 1930, Hurst bắt đầu một chuyến đi đến Ấn Độ, điều này đã đưa ông tiếp xúc với Meher Baba, Vishuddhananda Paramahansa, Paramacharya của Kancheepuram, Ramana Maharshi, và nhiều bậc chân tu khác. Brunton được ghi nhận là người đã giới thiệu Ramana Maharshi với phương Tây qua các cuốn sách A Search in Secret India và The Secret Path. Một ngày nọ—đang ngồi với Ramana Maharshi—Brunton có một trải nghiệm mà Steve Taylor đặt tên là “một trải nghiệm về sự giác ngộ thực sự đã thay đổi anh ấy mãi mãi”.
—–?☀️?—–
Tôi nhớ lại rằng theo phong tục Ấn Độ, khi đến viếng thăm một nhân vật đạo đức chân tu, người ta thường mang theo hoa quả bánh trái làm lễ vật ra mắt. Tôi định đi mua quà biếu, nhưng ở quanh vùng chỉ tìm thấy có hai món là hoa và cam, tôi bèn mua luôn cả hai thứ đem về.
Vì có quá đông người chen chúc nhau ngoài cửa ngõ, làm tôi bối rối quên cả một phong tục khác là cởi giày trước khi vào nhà. Mani mau mắn nhắc tôi. Tôi bèn cởi giày bỏ ngoài đường, hy vọng rằng đôi giày sẽ còn nguyên ở chỗ cũ khi tôi ra về.
Chúng tôi đi qua dãy hành lang và bước vào một gian phòng lớn. Ở cuối phòng, trong một góc thiếu ánh sáng, tôi nhận thấy có một người đứng khuất trong bóng tối. Tôi bước đến gần, đặt mâm lễ vật một bên và cúi rạp mình làm lễ. Tôi nhận thấy cái nghi lễ giản dị này có một tính cách lịch sự mà tôi rất thích, ngoài ý nghĩa cần thiết cơ bản của nó là để bày tỏ lòng tôn kính.
Tôi biết rằng Đại đức Shankara không phải là một vị Giáo hoàng, vì Ấn Độ không có một chức sắc tương tự như thế, nhưng ngài là một vị Giáo chủ và lãnh đạo tinh thần của một số tín đồ rất đông đảo. Toàn thể dân chúng Ấn Độ miền Nam đều kính cẩn nghiêng mình dưới sự bảo hộ của ngài.
Tôi im lặng nhìn đức Tăng Thống. Ngài có tác người hơi thấp, khoác một bộ áo màu vàng sậm của vị tăng lữ xuất gia và chống gậy tu sĩ. Tôi được biết rằng ngài mới trên bốn mươi tuổi, nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy tóc ngài đã điểm bạc.
Ngài có một tác phong cao quí, vẻ mặt khiêm tốn, dịu dàng, đôi mắt lớn đen huyền trông rất đẹp và có vẻ an tịnh khác thường. Mũi ngắn, thẳng và đều đặn, một bộ râu đen hơi ngắn phủ ở trên cằm, đôi môi khép chặt và nghiêm chỉnh. Gương mặt ngài hao hao giống như của một vị thánh Gia Tô thời Trung Cổ.
Người Tây phương có thể cho rằng cặp mắt đen của ngài có vẻ quá mơ mộng, nhưng tôi cảm thấy, bằng một cách khó giải thích, rằng ở sau đôi mắt đó còn có một cái gì khác hơn là những giấc mơ.
Tôi mở lời để bắt đầu câu chuyện:
– Đại đức đã quá hạ cố khi tiếp tôi. Thật rất hân hạnh…
Đại đức Shankara quay sang bạn tôi và nói ít lời bằng tiếng bản xứ, nhưng tôi có thể đoán được ý nghĩa. Bạn tôi thông dịch lại:
– Đại đức hiểu được tiếng Anh, nhưng ngài không nói được, và muốn tôi dịch lại những câu trả lời của ngài.
Tôi nói qua về những kinh nghiệm đầu tiên của tôi ở xứ này. Ngài muốn biết những cảm tưởng của một người ngoại quốc về đất nước và con người Ấn Độ. Câu chuyện kéo dài và tôi ngạc nhiên khi biết rằng Đức Tăng Thống thường xuyên đọc các báo chí của Anh quốc và tỏ ra rất am tường thời sự. Tôi chợt nhớ ra rằng Đại đức Shankara cũng nổi tiếng là một nhà tiên tri. Tôi bèn hỏi ý kiến ngài về tương lai của thế giới:
– Xin Đại đức cho biết, trong tương lai gần đây thời cuộc thế giới có được khả quan hơn bây giờ hay không?
– Tôi không thấy có sự thay đổi nào trong một ngày gần đây. Đó là một vấn đề thời gian. Làm sao có sự thay đổi tình hình khi mà các nước lớn đều đua nhau võ trang bằng các loại võ khí giết người ngày càng tối tân hơn?
– Nhưng người ta cũng đang bàn rất nhiều về vấn đề kiểm soát và cắt giảm vũ khí. Đại Đức nghĩ sao về vấn đề này?
– Cho dù các anh có tháo gỡ hết những chiến hạm và phá bỏ được những cỗ đại bác thành sắt vụn, điều đó cũng không ngăn cản được chiến tranh. Người ta sẽ quay sang đánh nhau bằng gậy gộc nếu không còn súng đạn.
– Vậy theo ngài thì phải thế nào?
– Điều cần phải thay đổi chính là phần tinh thần bên trong mỗi con người. Chỉ có sự hòa hợp tinh thần giữa mọi con người và mọi giai cấp xã hội với nhau mới có thể tạo ra được sự tin tưởng lẫn nhau và tái lập hòa bình, tạo nền tảng cho sự thịnh vượng chung.
– Theo khuynh hướng hiện nay thì điều đó chắc hẳn còn lâu lắm. Như vậy phải chăng hiện nay chúng ta có rất ít hy vọng? Đức Tăng Thống chống một tay lên gậy và nói:
– Không, điều đó còn tùy thuộc vào đức tin của con người. Khi có đức tin, người ta có thể xoay chuyển được toàn bộ vấn đề theo hướng tốt đẹp hơn nhiều.
Tôi bạo gan phản đối:
– Đức tin ư? Nhưng đức tin là một yếu tố rất trừu tượng, trong khi những sức mạnh vật chất hiện nay hầu như đang chế ngự tất cả. Khi những nước lớn luôn dùng sức mạnh để áp chế các nước nhỏ, liệu họ có thể chống lại bằng đức tin hay chăng?
Đại đức giải thích với một giọng dịu dàng:
– Không phải là vấn đề nước lớn và nước nhỏ, mà tất cả mọi con người khi sinh ra đều sẵn có trong lòng một tình thương, đối với nhân loại cũng như đối với muôn loài. Chính nhờ có tình thương căn bản này mà chắc chắn rồi có lúc họ sẽ sinh khởi được đức tin vào đời sống tinh thần và những sức mạnh tâm linh, thay vì mải mê chạy theo vật chất.
Tôi không cưỡng lại được một sự mỉa mai cay đắng dâng lên trong lòng tôi khi nghe những lời đầy tự tin và quả quyết này, đến nỗi tôi phải thốt lên:
– Cứ xét theo cách mà nhân loại đang đối xử với nhau hiện nay thì một tình thương sẵn có nơi tất cả mọi con người như ngài nói hẳn phải là rất khó nhận ra. Thú thật, tôi không thể không hoài nghi về tính xác thực của điều đó!
Đức Tăng Thống nhìn tôi một cách lạ lùng. Ngay tức khắc, tôi liền thấy hối tiếc về những nhận xét hấp tấp của mình. Tuy nhiên, ngài vẫn tiếp lời một cách điềm đạm:
– Chỉ cần kiên nhẫn và mở rộng lòng hơn một chút, anh sẽ có được một cái nhìn khác hơn. Ngay cả khi con người đang giành giật đấu đá nhau một cách tàn bạo nhất thì hạt giống tình thương trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn không hề mất đi. Những sự tranh chấp náo loạn giữa các quốc gia, sự đồi trụy tinh thần của đa số, và sự lầm than đau khổ của hàng triệu người đều không phải là những việc vô cớ xảy ra hoặc do một đấng tối cao nào sắp đặt. Con người phải chịu trách nhiệm về chính việc làm của mình. Điều này đúng một cách chắc chắn cũng như phương Tây các ông tin tưởng vào các định luật vật lý vậy. Vì thế, chính trong sự đau khổ cùng cực mà con người sẽ sớm nhận ra những lỗi lầm của mình. Bằng cách đối diện với khổ đau, con người sẽ nhận ra được rằng chỉ có một con đường duy nhất để thoát khổ là quay về với sự hoàn thiện đời sống đạo đức và tinh thần. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy từ cách đây gần hai mươi lăm thế kỷ.
– Như vậy, Đại đức tin rằng sẽ có một trào lưu tư tưởng mới sớm xuất hiện trong tương lai gần đây chăng?
Ngài chỉnh lại câu nói của tôi:
– Không chắc lắm trong tương lai gần đây, nhưng chắc chắn điều đó sẽ xảy ra khi các điều kiện nhân duyên đã có đủ. Lẽ tất nhiên phải là như vậy. Tôi thừa nhận là việc xoa dịu những khổ đau của nhân loại hiện nay đã trở nên vô cùng cấp bách, nhưng bức màn vô minh ám muội của người đời nay lại quá dày đặc, đến nỗi họ tự mình đắm chìm vào khổ đau chẳng khác nào con thiêu thân lao vào ánh đèn. Vì thế, điều cần thiết là phải có những bậc thầy sáng suốt, những vị hướng dẫn tâm linh xuất hiện. Điều này có thể xảy ra vào khoảng nửa sau của thế kỷ này hoặc muộn lắm cũng là đầu thế kỷ tới.
Tôi hỏi tiếp:
– Phải chăng Đại đức cho rằng con người hiện nay đang càng ngày càng trở nên sa đọa hơn trước?
Ngài đáp một cách khoan dung.
– Không, tôi không nghĩ như thế. Như đã nói, tình thương là hạt giống sẵn có trong mọi con người, cuối cùng rồi cũng sẽ làm cho họ thức tỉnh và quay về với sự hoàn thiện chính mình.
Nghĩ đến những tay bịp bợm, lừa đảo một cách khoa học và quy mô của thời đại này, tôi buột miệng nói ra một cách chua chát:
– Nhưng ở những thành phố Tây phương của chúng tôi đầy dẫy những kẻ bất lương, hành động chẳng khác nào như có quỷ vương ngự trong lòng họ. Tôi rất ngờ rằng hạt giống tình thương mà ngài nói đó có tồn tại được chăng nơi những con người ấy.
– Chúng ta không nên nhìn vấn đề một cách phiến diện và chê trách những người như thế, mà hãy phân tích và tìm hiểu về những hoàn cảnh xã hội đã tạo ra họ. Khi đó, chúng ta mới có thể phán đoán vấn đề một cách khách quan và chính xác hơn. Ông không thấy rằng chính hoàn cảnh xã hội luôn đóng vai trò quan trọng trong việc đưa đẩy người ta vào con đường tội lỗi hay sao? Dầu ở Đông phương hay Tây phương cũng vậy, môi trường xã hội cần phải tạo ra được những điều kiện tối thiểu cho sự tu tập hoàn thiện của con người. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận sự nỗ lực vươn lên của mỗi cá nhân và đổ lỗi hoàn toàn cho hoàn cảnh xã hội. Hoàn cảnh xã hội cũng là do con người tạo ra. Đó là lý do tôi nhắc đến vai trò của những bậc thầy tâm linh, những nhà lãnh đạo tinh thần mang tầm vóc của thế giới. Chính họ sẽ là những người tiên phong trong việc thay đổi môi trường tâm linh trong toàn xã hội để tạo điều kiện cho sự giải phóng của mỗi cá nhân ra khỏi sự mê mờ, tham lam và sân hận. Sự đam mê vật chất phải được thay thế bằng những hoài bão tinh thần cao cả và lý tưởng tâm linh. Không có phương thuốc mầu nhiệm nào để chữa trị căn bệnh của nhân loại hiện nay ngoài việc quay về với đời sống tâm linh. Những sự khó khăn và đau khổ của các quốc gia trên thế giới hiện nay là những cơn hấp hối sẽ thúc giục đưa đến sự thay đổi nói trên, bởi vì những lời thuyết giảng chân lý sẽ chẳng bao giờ được tiếp nhận khi người ta chưa biết gì về đau khổ.
– Phải chăng Đại đức muốn cho mọi người đều áp dụng những lý tưởng tâm linh, những nguyên lý đạo đức và hoàn thiện tinh thần vào công việc xử thế hằng ngày của họ?
– Đúng vậy, và đó là con đường duy nhất để giảm nhẹ khổ đau cho mỗi người cũng như cho toàn nhân loại. Điều đó cũng không phải khó làm, chỉ cần người ta nhận hiểu được và có được sự tin tưởng vào chính mình cũng như người khác. Và điều đó nhất thiết phải được thực hiện, bởi vì đó là phương tiện duy nhất để đem lại những kết quả lâu bền, mà cứu cánh là sẽ làm thỏa mãn tất cả mọi người. Rõ ràng hiện nay chúng ta còn thiếu những bậc thầy tâm linh có đủ trí tuệ và năng lực để truyền bá ánh sáng chân lý trên khắp thế giới. Nhưng tôi tin rằng trong thời gian tới rồi sẽ có những bậc thầy như thế xuất hiện. Nếu cả thế giới đều nhận thức được và làm theo lời dạy của những bậc thầy tâm linh sáng suốt này thì chắc chắn nhân loại sẽ sớm được sống trong hòa bình và thịnh vượng.
—–???—–