KHÔNG TUỔI TÁC KHÔNG THỜI GIAN
Trích “Không Tuổi Tác Không Thời Gian”
Tác giả: Deepak Chopra
Người dịch: Trần Ngọc Đức
Hiệu đính: Hoài Niệm
Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Ảnh: Deepak Chopra

CƠ THỂ CƠ HỌC LƯỢNG TỬ
🌿🌿🌿🌞🌿🌿🌿
Deepak Chopra (Tiến sĩ y khoa) : là tác giả của hơn 50 tựa sách được dịch ra 55 ngôn ngữ khác nhau, bao gồm vô số best seller theo tạp chí New York Times, cả trong lĩnh vực hư cấu lẫn phi hư cấu. Chương trình phát thanh Wellness Radio của Chopra được phát hàng tuần trên đài Sirius Stars, kênh 102, chuyên tập trung vào các chủ đề như thành công, tình yêu, giới tính, các mối quan hệ, sức khỏe và con đường tâm linh. Ông là nhà sáng lập kiêm chủ tịch của Alliance for a New Humanity (Liên minh vì Nhân loại mới). Tạp chí Time đã vinh danh Deepak Chopra như một trong 100 nhân vật hàng đầu của thế kỷ và xem ông là “nhà thơ – nhà tiên tri của nền y học tâm linh”.
🌿🌿🌿🌞🌿🌿🌿
Đối với một người ưa hoài nghi thì nói cơ thể là như vậy nghe thật chủ quan, nhưng những sự kiện lượng tử lại không chấp nhận thời gian tuyến tính đang diễn ra liên tục trong các tế bào của chúng ta. Trí năng của ADN hoạt động đồng thời trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Từ quá khứ, trí năng này đã nắm giữ bản kế hoạch của cuộc đời, của sự sống, áp dụng cho hiện tại chỉ một phần rất nhỏ những thông tin cần cho chức năng tế bào (có thể chỉ một phần tỉ toàn bộ cơ sở dữ kiện của nó), và giữ lại cho tương lai những thông tin sẽ cần tới cho những năm về sau. Vòng xoắn kép là kho lượng tử của tương lai bạn; ở đây, thời gian được nén lại và khóa chặt cho đến khi cần đến. Ngay khi bạn được thụ thai, các gen của bạn đã kiểm soát toàn bộ thời gian tồn tại của các sự kiện sẽ xuất hiện theo một chuỗi chính xác. Đôi bàn tay bạn chẳng hạn, chúng xuất hiện trong tử cung lúc đầu như những giọt không định hình các tế bào, rồi như những cục có những chỗ nhú ra, rồi thành những vây như vây cá, những bàn chân của loài lưỡng cư, bàn chân động vật, và cuối cùng là đôi bàn tay người. Nhữmg thứ này, các giọt tế bào, các cục có nhú, vây, bàn chân, vẫn còn hiện diện ngày hôm nay như những dữ liệu được lưu trữ trong các gen của bạn tựa như đôi bàn tay bạn lúc sơ sinh, lúc tuổi thơ, khi lớn tuổi và lúc tuổi già. Ở mức lượng tử, cùng một lúc bạn sống với tất cả các tuổi này.
Do chúng ta vừa là thực thể và lượng tử, nên con người sống trong cuộc sống đa chiều. Ngay lúc này đây, cùng một lúc bạn đang ở hai nơi. Một là thế giới hữu tình, cảm nhận được, tại đó cơ thể bạn phải tuân theo tất cả các lực của Tự nhiên “ngoài ta”. Gió làm nứt nẻ da bạn, nắng làm bạn cháy da; mùa đông mà không có nơi cư trú thì bạn sẽ chết vì rét cóng; và vi khuấn, virus tấn công sẽ gây cho tế bào của bạn bị bệnh. Nhưng bạn cũng đang ở trong thế giới lượng tử tại đó những thứ này đổi khác đi. Nếu bạn ngồi trong bồn tắm, ý thức của bạn không bị ướt. Những giới hạn của đời sống thực tại lại càng chẳng có gì quan trọng trong thế giới lượng tử, và thường là vô nghĩa lý. Cái lạnh của mùa đông không làm tê cóng những ký ức của bạn; cái nóng của đêm tháng bảy không làm cho bạn vã mồ hôi trong những giấc mơ.
Gộp tất cả các sự kiện lượng tử trong các tế bào của bạn lại, và toàn bộ là cơ thể cơ học lượng tử của bạn, cơ thể này hoạt động theo sinh lý riêng của nó, sinh lý vô hình. Cơ thể cơ học lượng tử của bạn là nhận thức đang vận động, và là bộ phận của trường nhận thức vĩnh cửu tồn tại ở nguồn sáng tạo. Trí năng bên trong chúng ta bức xạ giống như ánh sáng, đi ngang qua biên giới giữa thế giới lượng tử và thế giới vật lý, hợp nhất hai thế giới này lại thành một đối thoại hạ nguyên tử bất biến. Cơ thể vật lý và cơ thể cơ học lượng tử của bạn có thể cả hai đều được gọi là nhà – chúng giống như hai vũ trụ song song mà bạn có thể chu du ở giữa, thậm chí không phải nghĩ về nó.
Trong chừng mực có thể thấy được qua vẻ bề ngoài, thì cơ thể vật lý chiếm một vài chục cm khối không gian; nó giữ vai trò một hệ thống duy trì sự sống trong vòng bảy hoặc tám thập niên trước khi bị thải bỏ. Ngược lại, cơ thể cơ học lượng tử không chiếm một không gian xác định nào và không bao giờ bị hư hại, hao mòn. Có vật chứa nào đủ lớn mà bạn cần cho giấc mơ đêm hôm qua của bạn, hoặc cho ước ao được yêu thương của bạn? Cho dù toàn bộ vật liệu di truyền của một người có thể dễ dàng đựng vừa một muỗng trà, song điều quan trọng nhất về các gen – trí năng của chúng – lại không cần một không gian vật lý nào cả.
Ở mức cơ thể học lượng tử thì mỗi mặt của một trải nghiệm được bọc trong một điểm ngoài thế giới ba chiều. Một tấm hình của cô dâu mới cho chúng ta bản ghi trung thực về hình ảnh của cô ta như thế nào, và một băng từ có thể ghi lại giọng nói của cô ta, nhưng những thứ này đều là những mảnh lẻ còn rất thô thiển của trải nghiệm; nếu cô dâu không giữ chúng làm những vật lưu niệm thì chất liệu áo cưới của cô dâu và hương vị của chiếc bánh cưới xem ra sẽ mãi mãi không còn nữa.
Nhưng trong không gian lượng tử thì mọi thứ lập tức xuất hiện và chỉ cần một việc đơn giản là nhớ lại, thì cô dâu có thể có lại ngay cả một thế giới. Một điều kỳ diệu nữa là mỗi trải nghiệm khác mà cô dâu từng có trước dây sẽ được hòa màu cùng trải nghiệm mới này trong ký ức của nàng. Việc trở thành một phụ nữ đã có chồng trở nên một phần của toàn cảnh của cả cuộc đời của cô ta kế từ thời điểm nàng bước lên xe hoa, được ghi vào trí não cô ta.
Những hình ảnh để lại dấu ấn trên cơ thể cơ học lượng tử của bạn cũng phức tạp như chính bạn. Nói ngắn thì chính những hình ảnh đó là bạn đó. Bạn sống bên ngoài những hình ảnh được lưu trữ của bạn, tạo ra kiểu thời gian của riêng bạn, và trong quá trình này, bạn lập trình cho loại cơ thể có những đòi hỏi do kiểu thời gian của bạn. Tôi xin dẫn một ví dụ cụ thể về việc này.
Trong cuốn sách rất hấp dẫn của mình về những nghiên cứu các ca tâm thần, Kẻ hành hình Tình yêu (Love’s Executioner), Irvin Yalom kể lại câu chuyện về Betty, một cô gái chưa chồng 27 tuổi tìm đến ông xin điều trị. Ngay từ đầu, Betty đã là một ca rất khó. Tác phong khó khăn, đầy vẻ lạnh lùng, hờ hững và oán trách, cô liên tục có những lời kêu ca phàn nàn về việc không có một người nào thích hoặc chấp nhận cô. Cô làm việc trong một cửa hiệu bách hóa lớn có các quan hệ rộng rãi với công chúng, và mỗi chê bai từ phía khách hàng, đồng nghiệp và chủ đều bị cô phản ứng chỉ trích lại một cách không cần thiết.
Khi Yalom lắng nghe kể thì điều làm ông ngạc nhiên là trong suốt những lời kể lễ không biết mệt của Betty về nhữmg khổ sở của mình không hề thấy cô nói gì tới trọng lượng của mình. Dù chỉ cao có 1,57m song Betty lại nặng trên 93 kg. Cô và những người khác đều biết ngoại hình của cô như vậy là đáng ngại, song cô đã biến lối sống của mình thành một âm mưu giả dối tỉ mỉ để che giấu sự thật này. Không nói về trọng lượng của cô là một kiểu âm thầm che đậy nỗi đau sâu xa mà cô không thể đương đầu.
Yalom nhận ra rằng sẽ rất khó cho Betty để giải quyết tình trạng béo phì của cô nếu không hóa giải được nỗi đau tâm lý của cô. Ông đã bỏ ra hàng tháng trời để vô hiệu hóa những lời biện hộ của cô, và cuối cùng thì cũng đã làm được. Một hôm, Betty đột ngột nói với Yalom là cô sẽ làm cho giảm bớt trọng lượng đi. Cô đã phác họa một kế hoạch tấn công rất quy củ. Cô nghiêm túc bắt đầu với một chế độ ăn kiêng, tham gia nhóm giúp bạn, và có ý thức tránh những cám dỗ dẫn tới việc ăn uống lu bù. Cô giao kèo tham gia vũ điệu bốn đôi mỗi tuần, và đặt một xe đạp tại chỗ trước TV của cô. Khi số kg bắt đầu giảm đi rất nhanh thì Yalom đã thấy một điều thật đáng quan tâm.
Khi đã giảm cân, Betty bắt đầu có những giấc mơ và những dịp hồi tưởng mạnh mẽ và sâu sắc về những rắc rối gây buồn phiền trước đây. Những chấn thương nặng mà Yalom khó lòng giải tỏa được trong điều trị từ trước thì nay đã đang cùng lượng mỡ tan ra. Betty bắt đầu có những thay đổi về tâm trạng khó kiểm soát được mà lúc đầu tưởng như là ngẫu nhiên. Thế rồi Yalom nhận ra rằng những thay đổi đó đều rõ ràng theo cùng một kiểu : Đó là cô hồi tưởng những chấn thương khác nhau xảy ra khi cô có những trọng lượng nào đó. Hóa ra là Betty đã đều đều béo ra kể từ năm cô 15 tuổi.
Chẳng hạn lần cuối cùng cô cân nặng 88 kg là lần cô quyết định chuyển đến New York, khi đó cô 21 tuổi. Cô đã lớn lên tại một trại nuôi gia súc nhỏ nghèo nàn ở Texas, một đứa con duy nhất cứ phải lẩn quẩn bên một người mẹ góa bụa và trầm cảm. Vào cái ngày mà chế độ ăn kiêng đã làm cho cô giảm xuống còn 88 kg, Betty hồi tưởng việc rời nhà ra đi thật khó khăn biết bao. Theo đúng nghĩa đen, thời gian đã bị khóa chặt bên trong cô, ùa vào các tế bào của cô.
“Như vậy là việc cô giảm cân từ 93 kg xuống đã làm cho cô quay ngược lại thời gian những sự kiện liên quan đến xúc cảm trong đời cô : rời Texas đến New York (88 kg), tốt nghiệp trung học (71 kg), quyết định của cô bỏ lớp dự bị y khoa (và ước mơ khám phá ra cách chữa khỏi bệnh ung thư đã giết chết cha cô) (67 kg), sự cô đơn khi cô tốt nghiệp trường trung cao – sự ghen tỵ của cô đối với những cô con gái khác và cha của họ, việc cô không thể có ai hẹn đi dự khiêu vũ do lớp trên tổ chức trong trường (63 kg), buổi lễ tốt nghiệp của cô và sự vắng mặt cha cô tại buỗi lễ đó (58 kg)”.
Yalom đã hết sức sôi nổi khi thấy một ký ức về quá khứ lại có thể rõ ràng và sống động như vậy : “Một minh chứng tuyệt vời về vương quốc của vô thức! Cơ thể của Betty đã nhớ lại những gì mà trí nhớ của cô đã quên từ lâu”. Tôi muốn được đi xa hơn và nói rằng cơ thể của cô là một loại trí năng bản chất, một kho ký ức có dạng cụ thể trong các tế bào mỡ. Trải nghiệm của Betty đã trở thành Betty; thay vì chỉ chuyển hóa bánh humberger, bánh pizza, món sữa khuấy thì cô đã chuyển hóa mọi cảm xúc – những khát khao vô vọng, những nỗi thất vọng, những cay đắng – cùng với mỗi miếng thức ăn.
Giảm cân là sự giải thoát cô khỏi quá khứ, và khi cái cơ thể cũ ra đi thì một Betty mới được tạo ra. Cô nhanh chóng hiểu đúng về chính mình; cô thấy lại những ước mơ đã bị chôn sâu trong lòng và rơi lệ về những nỗi đau cô đã tự giấu mình trong nhiều năm. Những đường nét cơ thể nơi cô bắt đầu xuất hiện : lúc đầu là cái eo, rồi đến cặp đào tiên, rồi đến cái cằm và đôi gò má. Với dáng hình mới mẻ, Betty can đảm đến với đời sống xã hội. Trọng lượng đã biến cô thành một người bị ruồng bỏ từ khi cô mới ở tuổi thiếu niên; bây giờ thì cô đã có người hẹn hò đầu tiên, các chàng trai trong cơ quan thấy cô thật hấp dẫn, không còn lảng tránh vì cô không còn giữ thế thủ nữa.
Cuối cùng thì sự biến thái này đã không thành công hoàn toàn. Sự kiện gây tổn thương nhất trong đời Betty đã xảy ra ngay trước tuổi mới lớn của cô khi cha cô bị một cái chết kéo dài do ung thư; khi đó cô cân nặng 56 kg và đã không bao giờ lấy lại được cái trọng lượng ấy nữa. Bây giờ khi cô đã giảm được xuống còn 58 kg thì chế đô ăn kiêng của cô trở thành một cuộc đấu tranh khốc liệt – cơ thể của cô đã từ chối không muốn mất đi một gram nào nữa, dù bất kỳ thế nào, và những hồi tưởng của cô trở thành khó đương đầu.
“Chúng tôi đã sớm có những buổi trò chuyện về cha của cô. Đã đến lúc phát hiện được mọi thứ. Tôi đã dẫn dắt giúp cô nhớ lại và động viên cô bày tỏ tất cả những gì cô có thể nhớ về tình trạng ốm đau của cha cô, khi ông hấp hối, hình dáng của ông ở bệnh viện khi cô thấy ông lần cuối cùng, những chi tiết về đám tang ông, y phục cô mặc, lời điếu của vị mục sư, những người tham dự đám tang… Cô cảm thấy mất mát như chưa từng xảy ra trước đây, và suốt hai tuần lễ hầu như cứ khóc hoài”. Đây là thời điểm rất khó cho cả bác sĩ lẫn bệnh nhân. Bị tra tấn qua những cơn ác mộng về cái chết của cha mình, Betty nói mỗi đêm cô đã chết đi ba lần; Yalom cảm thấy mình thật có tội khi dồn cô đến một thời điểm không chỉ đã mất người cha mà tất cả giấc mơ hạnh phúc của cô nữa.
Betty ngần ngại bộc lộ thêm bất kỳ những xúc cảm đã bị chôn chặt nào nữa. Rõ ràng là tinh thần cô không thể vượt qua được cái ngưỡng cuối cùng quá gây sợ hãi này. Có thể cô cũng không thể. Quá nhiều đau buồn và những thất vọng đã hóa thành Betty. Vào khoảng thời điểm đó cô đã bỏ cả chế độ kiêng khem và liệu pháp điều trị. Cái ngưỡng 56 kg được giữ vững, thì hiện thân của sự mất mát người cha không bao giờ trở lại với cô. Yalom thấy tiếc là cô mới chỉ chữa khỏi một phần, song ông cũng phải chấp nhận sự khuây khỏa của mình – sự thử thách quá khắc nghiệt đã làm cho cả hai hết sức bàng hoàng.
Giống như Betty, ai cũng có thể trở lại thành con người trong quá khứ của mình, nhưng chúng ta cũng có sức mạnh để đảo ngược quá trình đó, làm tan thời gian đã bị đóng băng và giải phóng những ký ức bị dồn nén chẳng còn giúp được gì cho ta và còn ngăn cản hạnh phúc của chúng ta. Bạn vẫn đang đều đều không ngừng tạo ra và không tạo ra cơ thể bạn ở mức lượng tử. Từ không tạo ra cần có, bởi cuộc đời không phải toàn là sáng tạo; những trải nghiệm cũ, đã lỗi thời cần xét lại để có được những trải nghiệm mới xuất hiện. Đôi khi có người cảm thấy buộc phải cố phá bỏ toàn bộ những trải nghiệm mình đã tạo ra cùng năm tháng, những người bỗng dưng thay đổi việc làm hoặc lao vào việc ly dị dù chẳng bị xúc phạm gì, thường là do không thể nhận lại thế giới nội tại của mình.
Họ có thể quy trách nhiệm cho hoàn cảnh bên ngoài, cho một việc làm không thích hợp, hoặc một người vợ bất đắc dĩ. Tuy nhiên, điều thực sự không thể chấp nhận chính là trải nghiệm chủ quan của họ. Những ký ức độc hại đã tích tụ trong con người này tới mức những sự việc hoàn toàn bình thường – như gặp ông chủ tại tủ nước ướp lạnh, nhìn vợ chải răng vào buổi sáng – cũng làm hiện ra những cảm xúc tiêu cực đã bám sâu trong người. Tránh né là một nỗ lực làm giảm đi những xúc cảm này, nhưng cách này hiếm khi thành công bởi điều chúng ta muốn tránh né lại là một phần của chính chúng ta.
Giới hạn – thời gian chống lại nhận thức phi thời gian
Trong suốt cuốn sách này tôi đã trình bày ý kiến về việc bạn già đi như thế nào là tùy thuộc bạn chuyển hóa trải nghiệm của mình ra sao. Phân tích cho cùng thì việc bạn chuyển hóa thời gian như thế nào là khía cạnh quan trọng nhất của quá trình này, bởi thời gian là một trải nghiệm cơ bản nhất. Một bài học chính có được từ những lời giáo huấn của J. Krishnamurti là : “Thời gian là kẻ thù tâm lý của con người”, có nghĩa là chúng ta bị xói mòn về tâm lý và bị tước đi cái tôi đích thực của mình do cảm thấy thời gian là một sức mạnh tuyệt đối chúng ta không thể kiểm soát được. Không hiểu sao mà chúng ta lại quên rằng mình có thể làm cho thời gian trở thành kẻ thù, hoặc không.
Có thể có nhiều kinh nghiệm thực sự về tính chất phi thời gian, và khi điều này xảy ra thì sẽ có một thay đổi từ nhận thức giới hạn thời gian tới nhận thức phi thời gian.
Nhận thức giới hạn – thời gian được xác định bởi :
• Những mục tiêu từ bên ngoài (sự chấp nhận của người khác; của cải vật chất; tiền lương; leo lên những nấc thang thành công trong nghề nghiệp).
• Những hạn cuối cùng và áp lực thời gian.
• Hình ảnh bản thân, cái tôi được xây dựng từ những trải nghiệm trong quá khứ.
• Những bài học có được từ những tổn thương và thất bại trong quá khứ.
• Sợ thay đổi, sợ chết.
• Bối rối do quá khứ và tương lai gây ra (lo lắng, hối tiếc, thủ thế, đoán trước, thay đổi bất thường).
• Khát khao được an toàn, yên ổn (không bao giờ có được thường xuyên).
• Ích kỷ, quan điểm hạn hẹp (động cơ thúc đẩy điển hình: “Việc ấy có gì dành cho tôi?”).
Nhận thức phi thời gian được xác định bởi :
• Những mục tiêu nội tâm (hạnh phúc; tự tin, tính sáng tạo; hài lòng cho là mọi lúc mình đều làm hết sức có thể).
• Không bị áp lực thời gian; có cảm giác thời gian thật là nhiều và vô hạn.
• Ít nghĩ về hình ảnh bản thân về cái tôi; hoạt động được tập trung vào thời điểm hiện tại.
• Tin cậy ở trực giác và những biến đối bất ngờ của tưởng tượng.
• Coi thường, không lệ thuộc sự thay đổi và rối loạn; không sợ chết.
• Những kinh nghiệm tích cực về Tồn tại.
• Vị tha, quên mình, có tính nhân bản (động cơ điển hình: “Tôi có thể giúp được không?”).
• Có ý thức về sự bất tử của con người.
🌿🌿🌿🌞🌿🌿🌿