NGUYỄN THẾ ĐĂNG
Trích: Đạo Phật Và Đời Sống; NXB: Thiện Tri Thức-2017
---???---
Nói riêng về lịch sử Phật giáo, thì thế kỷ 20 là thế kỷ được đánh dấu bằng sự du nhập của đạo Phật vào Tây phương. Bằng những con đường khác biệt nhau, thoạt xem thì như là những tình cờ của lịch sử, mà Thiền của Nhật Bản và Trung Hoa, Phật giáo Mật tông của Tây Tạng, và cả Nam tông đang dần dần nở rộ ở Tây phương. Hiện nay, không thể tính hết các chùa Nhật, Trung Hoa và Việt Nam, các tự viện Tây Tạng, các chùa Nam tông cũng như không thể đếm hết các đầu sách do người Nhật, Trung Hoa, Tây Tạng cũng như người Tây phương viết hay dịch về Phật giáo. Trong sự khủng hoảng sâu sắc về tinh thần của thế kỷ 20, quả thật không ít người Tây phương trong đủ mọi thành phần (chỉ kể vài người tiêu biểu như: P. Kapleau, thương gia Mỹ qua tu học ở Nhật và trở thành Lão sư; R.Oppenheimer, nhà vật lý nguyên tử; Salinger, nhà văn Mỹ; Tina Turner, nữ hoàng nhạc Rock …) đã tìm thấy trong đạo Phật một cái gì làm nơi nương tựa cho cuộc đời của họ.
Nhưng dù gì đi nữa, mới lạ đối với Tây phương hay là “đã cũ” với người Đông phương, thì trong sự khủng hoảng tinh thần của thế kỷ này, đạo Phật cũng tự nói lên được giá trị bền vững của nó. Giá trị đó là một nền văn hóa đã và đang thường trú trong sinh mệnh của nhiều quốc gia và vẫn là một sức mạnh định hướng cho tương lai nhân loại.
Sau đây, bằng cái nhìn còn nhiều giới hạn của mình, chúng tôi nêu lên những đặc tính của nền văn hóa Phật giáo, những yếu tố làm khung cho một đời sống văn minh theo quan điểm Phật giáo.
1. Một nền văn hóa nhân bản: Đạo Phật sở dĩ có, trước hết là vì con người, vì lợi lạc cho con người. Theo đạo Phật, con người giá trị hơn hết trong mọi loài, hơn cả các thần và chư Thiên, vì khả năng trở nên hoàn thiện của nó là cao nhất.
Có thể định nghĩa đạo Phật là đường đi cho mỗi một con người đến chỗ hoàn thiện, như một con người là đức Thích Ca trước kia đã trở nên hoàn thiện. Ngài đã nói: Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành.
Con người trong đạo Phật không phải là một định nghĩa chung chung theo kiểu triết lý, không phải là một con số của thống kê, cũng không chỉ là một đối tượng của riêng một lãnh vực nào, kinh tế, chính trị, xã hội, sinh học … Con người trong đạo Phật là con người cụ thể, từng cá nhân một, với nghiệp báo riêng giàu nghèo, sướng khổ, bất hạnh hay may mắn … Đạo Phật đến với từng con người cụ thể khi đạo Phật nói rằng có tám vạn bốn ngàn pháp môn (là một con số tượng trưng về số lượng và chất lượng) để chữa trị cho tám vạn bốn ngàn phiền não đau khổ của chúng sanh. Con người trong đạo Phật là một cá thể nghiệp báo độc nhất, không ai có thể thay thế cho ai, và mỗi người phải chịu trách nhiệm trọn vẹn với đời mình, tự do tiến hóa hay thụt lùi theo đúng định luật nhân quả.
Trong tâm từ bi vô lượng, đạo Phật lấy việc cứu giúp con người làm sự sống của mình, khi nói rằng: Phụng sự chúng sanh tức là cúng dường chư Phật.
2. Một nền văn hóa hoà bình: Đạo Phật bắt đầu bằng sự an bình, vận hành trong an bình để đến mục đích cuối cùng là An Lạc. Quá trình của Giới – Định – Huệ là quá trình từ bình an đi đến bình an. Giới luật là sự giữ gìn hòa bình nơi bản thân để mở ra an bình cho tất cả. Có thể nói bình an là một giá trị cao cả, để có thể đánh giá xem người nào tiến hóa nhiều, người nào tiến hóa ít.
Ngày nay đạo Phật phát triển trên khắp thế giới, sự phát triển đó là lịch sử của hòa bình, phát triển mà không hề có một cuộc chiến tranh tôn giáo, không mang tâm niệm bá quyền thống trị. Đạo Phật đến với con người bằng chính mình, mà không hề động đến bạo lực, đe dọa, không dùng quyền lợi để dụ dỗ và ngay cả khi bị ngược đãi cũng vẫn nhẫn nhục bình an.
Hòa bình, bất bạo động không chỉ với con người, mà còn với loài vô tình và hữu tình, từ sông núi cỏ cây, thú vật đến các thần và chư Thiên … Không xem thế giới như một đối tượng để chiếm hữu và sử dụng cho mình đến cạn kiệt, hư hoại. Hòa bình – và một hệ quả của nó là bình đẳng – chính là sức mạnh của đạo Phật.
3. Một nền văn hóa khai phóng: Thành Phật là thành tựu sự hoàn thiện. Có thể nói thành Phật là trở thành một con người toàn diện Bi Trí Dũng. Trong quá trình hoàn thiện và trở nên toàn diện đó, mọi tiềm năng tốt đẹp của con người đều được khai phóng. Khai phóng với nội minh (trí huệ của đạo Phật) và khai phóng với ngoại minh (các khoa học: ngôn ngữ, y khoa, kỹ thuật, nghệ thuật …) để tựu thành Trí biết tất cả (Nhất thiết chủng trí). Điều này được chứng tỏ qua những nền văn hóa, kỹ thuật và nghệ thuật rực rỡ, như ở ta thì có Lý, Trần, ở Trung Hoa có Đường, Tống. Theo học giả Nhật Nakamura, thì một điều có vẻ nghịch lý là, những nhà tu Thiền, những người triệt để từ bỏ mọi hình tướng nhất, lại là những người thiện nghệ nhất trong sản xuất, trong quản lý đồ chúng, trong sự điều hành một xã hội tự viện có khi mấy ngàn người.
4. Một nền văn hóa giúp cho con người biết rõ chính mình: Triết học Tây phương khởi từ Socrates với câu nói: Hãy tự biết chính mình. Minh triết Đông phương thấy rằng con người là một tiểu vũ trụ. Đạo Phật nói rằng: Trong thân thể mười mấy tấc này, có sự sinh thành và chấm dứt của vũ trụ.
Hơn cả triết học và khoa học, đạo Phật dùng Giới Định Huệ là những khả năng cao tột, trong sáng nhất mà con người có thể có để tìm hiểu tự thân, và biết rõ tự thân tức là biết rõ thế giới, vì cả hai đồng một thể, đồng chất (bảy đại) đồng một cách sinh thành (duyên khởi).
Chỉ nói riêng về một môn phân tâm học hiện đại, nghiên cứu về ý thức và tiềm thức con người, cũng chẳng thể đạt đến mức độ thâm sâu bằng Duy thức học của Phật Giáo, vì Duy thức học dựa trên thiền định để biết rõ cơ cấu tâm thức con người.
Tất cả môn học ở đời nhằm tìm hiểu, khám phá về con người, trong một cái nhìn toàn cục, đều thuộc về đạo Phật để mở đường ra khỏi hạn cục và bế tắc.
5. Một nền văn hóa đáp ứng được tất cả nguyện vọng chân chính của con người: Có lần các sinh viên đại học Mỹ hỏi nhà bác học R. Oppenheimer, người chủ trì làm trái bom nguyên tử đầu tiên rằng: quan điểm của ông về vấn đề sống và chết như thế nào? Ông đáp: các bạn hãy tìm trong kinh Phật, cách đây hơn 2000 năm, vấn đề đó đã được đạo Phật giải quyết rồi.
Đạo Phật không chỉ là lời giải đáp thực tiễn cho vấn đề sống chết, mà còn giải quyết mọi vấn đề nhân sinh. Tất cả đều được giải quyết trên định luật nhân quả duyên sanh.
6. Một nền văn hóa thanh tịnh hóa (trong sáng hóa) con người và xã hội: Một đời sống đạo Phật, dù ở mức độ nào, cũng là sự trong sạch hóa thân tâm: một thân thể khoẻ mạnh do giữ giới trong việc ăn uống và điều độ hằng ngày, một tâm hồn không u tối vì tham lam, thù hận, ganh ghét, sợ hãi… Đó là một nhân cách tỏa ra ánh sáng và tình thương. Lý tưởng Đông phương, tính cách cao khiết, ít ham muốn, biết vừa đủ trong vật chất, thể hiện nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, các hiền giả Ấn Độ và Trung Hoa… cũng là một tính cách của đạo Phật. Tính cách này được thể hiện trọn vẹn nơi đạo Phật bằng sức mạnh thực hành của mình.
Một xã hội trong sạch, gồm những người trong sạch – mà hình ảnh thu nhỏ và tinh chất của nó là xã hội Tăng đoàn – là điều đạo Phật có thể thực hiện nơi trần thế.
7. Một nền văn hóa uyển chuyển, vô ngại, gần gũi với tất cả mọi người: Bằng sự bất biến tùy duyên, đạo Phật đi vào đất nước nào đều đi vào trái tim (cuộc sống thực tế) của dân tộc đó.
Đạo Phật rộng lớn và bao trùm, nên đối với bất kỳ ai, với loại căn cơ nào, đều có những cánh cửa cho người đó bước vào. Đạo Phật gần gũi với tất cả, với người đòi lý trí đạo Phật có lý trí, với người đòi tình cảm, đạo Phật có tình cảm, đòi hành động có hành động, đòi phân tích có phân tích … Đạo Phật thì vô ngại với tất cả. Nó đã không chống đối phủ nhận khoa học – như một vài tôn giáo đã từng làm – mà trái lại, còn khuyến khích tất cả các khoa học, bởi vì khoa học càng tiến, càng dễ nhìn thấy đạo Phật hơn. Ví dụ như Albert Einstein chẳng hạn.
Ở trên chỉ sơ lược, không triển khai, vài đặc tính của văn hóa Phật giáo. Trong lịch sử Việt Nam, nền văn hóa Phật giáo đã được hai triều đại Lý, Trần phổ vào đời sống Việt Nam để thành tựu một thời đại đỉnh cao về đủ mọi mặt. Nền văn hóa đó có thể là động lực đưa thời đại chúng ta lên một đỉnh cao mới hay không, việc đó tùy thuộc vào sự thể hiện của nền văn hóa đó vào trong đời sống của mỗi một chúng ta, tùy thuộc vào Trí Huệ và Từ Bi của mỗi chúng ta, tuỳ thuộc vào Tín Hạnh Nguyện của mỗi chúng ta.
—???—