PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG VÀ ĐẠO ĐỨC MƯỜI ĐIỀU THIỆN

HT. THÍCH THIỆN NHƠN

Trích: Những Đóa Hoa Phật Giáo Việt Nam; Nhà Xuất Bản Hồng Đức.

Dẫn nhập

Vua Trần Nhân Tông sinh năm 1258 con vua Trần Thánh Tông, lên ngôi năm 1278, là vị vua thứ ba sau Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông nhà Trần, đã lãnh đạo chiến thắng hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Chiến thắng quân Nguyên (1285) – Mông (1288), giành độc lập tự chủ cho đất nước và dân tộc, tạo được sự đoàn kết hòa hợp dân tộc, điển hình là hai cuộc Hội nghị trưng cầu dân ý – Hội nghị Bình Than (1282) và Hội nghị Diên Hồng (1285). Khi đất nước thanh bình, bờ cõi, biên cương không còn bóng quân xâm lược, tháng 7/1294, ngài xuất gia với Thiền sư Tuệ Tuệ đệ tử Thiền sư Tiêu Diêu tại cung Vũ Lâm – Ninh Bình.

Phật hoàng Trần Nhân Tông sơ tổ thiền phái Trúc Lâm Việt Nam (1258 – 1308)

Sau khi xuất gia, tháng 5/1299, ngài lên thẳng chùa Hoa Yên, núi Yên Tử đạo Hải Dương nay là Quảng Ninh do Thiền sư Hiện Quang khai sơn. Ngài quyết tâm hạ thủ công phu, lấy pháp hiệu là Hương Vân Đại đầu đà và ngộ đạo trở thành vị vua Phật – Điều Ngự Giác Hoàng, thành lập phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, phái Thiền Việt Nam và thống nhất Phật giáo đời Trần, gọi là Phật giáo nhất tông. Ngoài công việc trọng đại trên, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông bằng tâm từ bi vô lượng đã đi chu du khắp cả nước, giáo hóa nhân dân sống đạo đức, lương thiện, tạo thành một xã hội thanh bình, thuần lương, nhân hậu, đạo đức, xây dựng một cực lạc tại nhân gian, một thiên đường trên quả đất này. Triết lý mà Phật hoàng Trần Nhân Tông sử dụng là giáo lý mười điều thiện, là giáo lý căn bản của Phật giáo Nam Bắc truyền. Triết lý này được Phật hoàng Trần Nhân Tông khai thác trên cơ sở Con Người và Tâm là Phật làm chủ yếu. Tâm là Phật, Phật là Tâm chính là cơ bản cho mọi lý luận, hành động và thực chứng.

Nội dung triết lý nhân bản xã hội

Đạo Phật thiết lập thế giới và hành động trên cơ sở con người và con người thì có ba nghiệp: thân hành động, miệng nói năng, ý suy nghĩ, tạo thành mười hành động là việc làm, lời nói và ý nghĩ. Mười điều thiện là: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói ly gián, không nói lời độc ác, không tham lam, không sân hận, không tà kiến si mê.

Trên cơ sở tâm từ bi, mỗi người đều thực hành hạnh không sát sinh, từ bỏ sát sinh, nhằm tôn trọng sự sống và bình đẳng sinh mạng, phát triển tâm từ bi, đoạn trừ nhân quả trả vay, gieo nhân trường thọ đời này và đời sau, tương ứng với Pháp thân thường trụ, Vô lượng thọ Phật. Thế nên, Khế kinh nói: “Ai cũng sợ gươm đao. Ai cũng thích sống còn. Hãy lấy mình, suy lòng người. Chớ giết, chớ bảo giết”. Từ đó, mọi người sẽ phát triển tình người, yêu thương đồng loại, xây dựng và củng cố hòa bình, hạnh phúc cho dân tộc và nhân loại. Như Khế kinh nói: “Tất cả chúng sinh không nghiệp sát, lo gì thế giới dấy binh đao. Mọi nhà, mọi chốn đều tu thiện, lo gì thiên hạ chẳng thái bình” (Kinh Hoa Nghiêm Tùy Sớ – Phẩm Thập Địa). Đồng quan điểm, Thiền sư Trần Thái Tông nhấn mạnh: “Cánh, lông, mai, vảy thảy sinh linh. Chết sợ, sống tham hà khác tính. Từ cổ Thánh hiền lòng bất nhẫn, sao đành thấy chết, lại tham sinh” (Khóa hư lục).

Qua tâm xả, mỗi người thực hành không trộm cướp, phát triển tâm bố thí, thực hành hạnh bố thí, tôn trọng tài sản mọi người, không chiếm hữu tài sản công cũng như tư, không làm thất thoát tài sản, tài chính của công, không biển thủ công quỹ, không tiêu cực, không đong non, cân thiếu, bơm xăng dầu thiếu lít… Qua đó, mỗi cá nhân sẽ đoạn trừ nhân quả trả vay đời nay và đời sau, gieo trồng chánh nhân phương tiện cụ túc ở quả vị Phật trong tương lai: còn đời sau trên cơ sở thân người được giàu sang, phú quý, danh vọng, địa vị, mong cầu đều được toại ý. Như Thiền sư Trần Thái Tông nói: “Khoét vách đào tường ý nghĩ sâu. Ngàn mưu, trăm kế luống mong cầu. Của người dầu có đời này được. Muôn kiếp đời sau làm ngựa trâu” (Khóa hư lục).

Từ tâm thanh tịnh, mỗi người tu hạnh ly dục, ly khai tà hạnh, xây dựng hạnh phúc cá nhân, gia đình và nhân quần xã hội trên cơ sở một vợ, một chồng không lang chạ, không phá hoại hạnh phúc gia đình của kẻ khác, tôn trọng nhân phẩm, danh dự cá nhân và xã hội, tạo cho xã hội có một cuộc sống đầm ấm hạnh phúc, chung hưởng hòa khí cộng đồng xã hội. Như Thiền sư Trần Thái Tông nói: “Tóc thủy hương mai. Má nhụy đào. Mắt đưa liếc thẳng, dạ nao nao. Thịt da một bọc hôi quanh quẩn. Ngầm cắt lòng người chẳng mượn dao” (Khóa hư lục).

“Tất cả Pháp không sinh. Tất cả Pháp không diệt. Ai hiểu được nghĩa này. Thì chư Phật hiện tiền. Làm gì có đến đi”

Từ chân như thật tánh, mọi người thực hành không nói dối, nhằm tôn trọng sự thật, xây dựng niềm tin cho nhau trong các mối quan hệ, giao tế, họp hội, hiệp ước… tạo được niềm tin tuyệt đối cho nhau trong công việc và hành động, đưa đến kết quả hữu hiệu, tránh được tình trạng phản bội, lừa đảo nhau… Như kinh Pháp Cú Thí Dụ nói: “Ai không nói dối điêu ngoa. Nói lời chân thật hiền hòa thuần lương. Lời ra đều được tán dương, tin dùng. Bà con quyến thuộc quây quần bên nhau. Mai sau chứng được quả cao. Chứng chân thật ngữ, giảng giao Pháp màu”, Thành tựu Quyến thuộc cụ túc. Đồng quan điểm trên, Thiền sư Trần Thái Tông nói: “So vai cười nịnh, lưỡi khua môi. Mãi việc nói càn, sống ở đời. Lựa ý cầu vui mong được lợi. Mặc dầu nghiệp rốt buộc thân tôi” (Khóa hư lục).

Bằng cơ sở tự tâm hòa hợp, mỗi người thực hành hạnh không nói lời ly gián, mà nói lời đoàn kết, hòa hợp, xây dựng mối hòa hảo, trong gia đình, xã hội, thế giới, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, một thực thể bất khả phân ly, không có gì lay chuyển, một xã hội trên nói dưới nghe, dưới nói trên ghi nhận, chính là sự đoàn kết hòa hợp một lòng do chính cá nhân tạo dựng nên và trở thành một thực thể bất động và tồn tại mãi mãi. Do đó, cổ đức nói: “Chim xa cành con thương cây nhới cội. Người xa người tội lắm người ơi. Cùng nhau chung sống trọn đời. Môi hở răng lạnh một đời bên nhau”, thành tựu Quyến thuộc cụ túc.

Bằng tự tánh bình đẳng, mỗi người thực hành hạnh nói không thêm bớt, nhằm tôn trọng chính xác sự vật khách quan và thực thể, thực chất của vấn đề, tạo sự chính xác cho công tác thông tin đại chúng, báo chí, báo đài, thông tấn xã… Do đó, mọi người sẽ tin cậy lẫn nhau và xây dựng niềm tin cho nhau rên tinh thần bình đẳng, không thêm không bớt, trước sau như một.

Như ca dao Việt Nam có câu: “Xin đừng vẽ rắn thêm chân. Chuyện không nói có, chuyện gần nói xa”, thành tựu Quyến thuộc cụ túc.

Từ tự tâm vô sân, nhẫn nhục, mỗi người thực hành hạnh không nói lời ác độc, gây đau khổ cho nhau. Trái lại, mỗi người cần nói lời hòa nhã, từ tốn, khiêm cung, nhã nhặn, yêu thương, sẵn sàng dung thứ cho nhau trong những lỗi lầm nếu có. Từ đó, mỗi cá nhân tạo dựng nếp sống bình an tâm hồn cho mình và tha nhân trong thế giới, như người xưa nói: “Miệng ta là đóa hoa sen. Một phen hé nở, mười phương thơm lừng. Miệng ta là gió mùa xuân, một khi khởi động muôn phương mát lòng”, thành tựu Quyến thuộc cụ túc.

Bằng tâm vô tham, mỗi người đoạn trừ tham dục về sáu đối tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Do đó, Thiền sư Trần Thái Tông đã nói: “Mũi đắm mùi thơm, tai đắm tiếng. Mắt mê sắc đẹp, lưỡi đắm mùi. Cứ mê làm khách phong trần mãi. Mới biết xa quê mấy dặm đường” (Khóa hư lục). Vì vậy, do vô tham, nên tâm con người hoàn toàn thanh tịnh, vắng lặng như mặt nước hồ thu. Chính là do giới thành tựu định, phát sanh trí tuệ, nên Khế kinh nói: “Không mong cầu quốc độ, của cải và vợ con, bằng việc làm phi pháp. Người ấy thật trì giới, với trí tuệ thanh tịnh”, chứng Đoạn đức, thành tựu Pháp thân thanh tịnh.

Với tâm vô sân, mỗi người nỗ lực đoạn trừ tâm sân, phát triển tâm từ bi, nhẫn nhục, đoạn trừ sự làm tồn hại tự tâm, tự thân, tha nhân, xã hội và thế giới, mang lại hạnh phúc hòa bình, an lạc cho quốc gia, lãnh thổ và thế giới không có chiến tranh thù hận, cùng nhau chung sống hòa bình và phát triển phồn vinh. Như cổ đức nói: “Lửa lòng đã tắt từ lâu. Tự tâm thanh tịnh một bầu thanh lương. Mưa từ, nước pháp cành dương. Chúng sinh lợi lạc, muôn phương thái bình”, chứng Giải thoát đức, thành tựu Giải thoát thân.

Bằng tâm trí huệ, mỗi người đoạn trừ tà kiến si mê, phát huy tâm sáng suốt, nhận định khách quan, chính xác và khoa học, không cuồng tín và manh động, thấy rõ lý nhân quả tội phúc. Do đó, con người tránh điều ác, làm điều lành, thực hành Chánh pháp, đem lại chính tín cho mình, cho người, cho xã hội nhân sinh thế giới. Như Khế kinh nói: “Phi chân hiểu là phi chân. Chân thật hiểu là chân thật. Người hiểu đúng như vậy. Mau đạt được lý chân”. Nói rộng hơn, kinh Niết-bàn xác định, thành tựu năm loại trí tuệ: Chánh kiến, thấy đúng như thật, sự vật khách quan; Biến kiến: thấy vấn đề một cách phổ quát, không cục bộ hay thiên kiến…; Thứ đệ kiến: thấy đúng sự vật, sự kiện xảy ra theo trình tự nhất định từ nhân đến quả, từ thấp đến cao, từ gần đến xa…; Biệt kiến: thấy được cái dị biệt trong cái đồng nhất; Tổng kiến: thấy được cái đồng nhất trong cái dị biệt…, chứng Bát-nhã đức, thành tựu Báo thân…

Tính cách thực tiễn

Từ quan điểm, lập trường của Phật hoàng Trần Nhân Tông nói riêng, Phật giáo đời Trần nói chung, là đồng nhất tư tưởng lấy con Người làm cơ sở, lấy Tâm làm chủ thể – Tâm là Phật, Phật là Tâm, ngộ Tâm là ngộ Phật, ngộ Phật là ngộ Tâm. Do đó, triết lý nhân quả qua mười điều thiện của Phật giáo Nam truyền, Bắc truyền cũng như toàn bộ hệ thống giáo lý Phật giáo là nhất quán, điều đó được minh chứng: “Con người là hơn hết, vì có hai khả năng: một là, có khả năng thành Phật, hai là có khả năng chuyển hóa tâm linh và thay đổi hoàn cảnh con người và xã hội cũng như thế giới” (Kinh Anh Lạc).

Thế nên, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã sử dụng giáo lý thực tiễn và khế lý, khế cơ, khế thời, khế xứ, đó là giáo lý mười điều thiện để xây dựng Phật giáo đời Trần thanh bình, thạnh trị, ấm no, hạnh phúc, đạo đức nhân bản nhất và giác ngộ giải thoát giữa trần gian tại thế gian này, mà chủ đích kinh Mười điều thiện đã xác định: “Xây dựng một Thiên đường, Tịnh độ, Cực lạc trần gian đều do thực hành mười điều thiện”. Như Thiền sư Đại Nam nói: “Cần hỏi ai lương tâm ấy sáng soi như nhật nguyệt. Cõi lòng này rộng lớn đức từ bi” và từ đó nỗ lực thực hành mười điều thiện, hồi hướng công đức về quả vị Phật, nhất định sẽ thành Phật, đã thành Phật, đang là Phật là một chủ thể duy nhất qua mười điều thiện của Phật hoàng Trần Nhân Tông, Phật giáo đời Trần và mãi mãi về sau.

Kết luận

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông – Điều Ngự Giác Hoàng sáng lập, là thiền-giáo song hành, nên không những đã thể hiện trọn vẹn tinh thần Phật giáo Việt Nam, mà còn phù hợp ý chỉ chư Phật và lòng người. Qua đó, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã tạo nên sự đoàn kết, nhất trí toàn dân, thống nhất Phật giáo. Bởi lẽ, con người là chủ nhân ông của vũ trụ, của mọi hành động thiện ác, Do đó, nếu tất cả mọi người hành thiện, tu tâm dưỡng tánh, trực nhận bản lai diện mục của chính mình, thì mọi công đức trở thành vô lậu và cứu cánh. Về xã hội, mười điều thiện sẽ xây dựng cho con người một xã hội thuần lương, nhân hậu, đạo đức, xã hội được nâng cao và tiến tới hình thành một thế giới hoàng kim, một thiên đường, cõi cực lạc, tịnh độ tại nhân gian, cuối cùng giác ngộ giải thoát thành Phật như Điều Ngự Giác Hoàng – Trần Nhân Tông đã xác định và bản thân, tự tâm ngài cũng đã thể hiện trong cuộc sống tu hành, giác ngộ tại thế gian này, không tìm đâu xa. Và trước khi viên tịch ngày 01/11/1308, ngài đã dạy: “Tất cả Pháp không sinh. Tất cả Pháp không diệt. Ai hiểu được nghĩa này. Thì chư Phật hiện tiền. Làm gì có đến đi”.

Bị chú:

Thiền sư Hiện Quang đời thứ 38 dòng Thiền Vô Ngôn Thông, khai sơn chùa Hoa Yên – Yên Tử, là đời thứ nhất Thiền phái Yên Tử, truyền cho Thiền sư Đạo Viên đời thứ hai, truyền cho Thiền sư Đại Đăng đời thứ ba, truyền cho Thiền sư Tiêu Diêu đời thứ tư, truyền cho Thiền sư Tuệ Tuệ đời thứ năm, truyền cho Phật hoàng Trần Nhân Tông là đời thứ sáu, Nhưng vì tôn kính ngài, nên gọi là Sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Qua đó, Thiền phái Vô Ngôn Thông đến thời Thiền sư Hiện Quang xem như kết thúc, mở đầu cho Thiền phái Yên Tử mà Thiền sư Hiện Quang là đời thứ nhất.

Chùa Hoa Yên – núi Yên Tử

Bình luận


Bài viết mới

  1. GIẢM THIỂU SỰ TÁC ĐỘNG CỦA BẢN NGÃ VÀ NHỮNG TỔN THƯƠNG
  2. LỢI ÍCH CỦA THIỀN ĐỊNH CHỮA LÀNH – PHẦN 1
  3. LỢI ÍCH CỦA THIỀN ĐỊNH CHỮA LÀNH – P2: NHỮNG LỢI ÍCH THỂ CHẤT