KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU

KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU

Trích: Kinh vu lan và báo hiếu; Dịch giả: HT. Thích Huệ Đăng; Hội Phật giáo Việt Nam; Nhà xuất bản Tôn Giáo

PHẬT NÓI

KINH VU LAN BỒN

Nam Mô Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát

 

Ta từng nghe lời tạc như vầy:

 

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,

Xá Vệ thành, Kỳ Thụ viên trung,

Mục Liên mới đặng lục thông,

Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.

 

Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,

Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

Làm con hiếu hạnh vi tiên,

Bèn dùng tuệ nhãn dưới trên kiếm tầm.

 

Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,

Không uống ăn tiều tụy hình hài,

Mục Liên thấy vậy bi ai,

Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.

 

Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu,

Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu,

Thấy cơm, mẹ rất lo âu,

Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.

 

Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt,

Sợ chúng ma cướp giựt của bà,

Cơm đưa chưa đến miệng đà,

Hóa thành than lửa, nuốt mà đặng đâu.

 

Thấy như vậy âu sầu thê thảm,

Mục Kiền Liên bi cảm xót thương,

Mau mau về đến giảng đường,

Bạch cùng Sư Phụ tìm phương giải nàn.

 

Phật mới bảo rõ ràng căn cội:

Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu,

Dầu ông thần lực nhiệm mầu,

Một mình không thể ai cầu đặng đâu.

 

Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,

Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên,

Cùng là các bậc thần kỳ,

Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương.

 

Cộng ba cõi sáu phương tụ tập,

Cũng không phương tế cấp mẹ ngươi,

Muốn cho cứu đặng mạng người,

Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.

 

Pháp cứu tế Ta toan giảng nói,

Cho mọi người thoát khỏi ách nàn,

Bèn kêu Mục Thị đến gần,

Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi.

 

Rằm tháng bảy là kỳ tự tứ,

Mười phương Tăng đều dự lễ này,

Phải toan sắm sửa chớ chầy,

Đồ ăn trăm món, trái cây năm màu.

 

Lại phải sắm giường nằm nệm lót,

Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu,

Món ăn tinh sạch báu mầu,

Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.

 

Chư đại đức mười phương thọ thực,

Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng,

Lại thêm cha mẹ hiện tiền,

Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.

 

Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ,

Dầu ở đâu cũng tụ hội về,

Như người thiền định sơn khê,

Tránh điều phiền não, chăm về thiền na.

 

Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả,

Công tu hành nguyện thỏa vô sanh,

Hoặc người thọ hạ kinh hành,

Chẳng ham quyền quý, ẩn danh lâm tòng.

 

Hoặc người đặng lục thông tấn phát,

Và những hàng Duyên-giác, Thinh-văn,

Hoặc chư Bồ-tát mười phương,

Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh.

 

Đều trì giới rất thanh, rất tịnh,

Đạo đức dày chánh định chân tâm,

Tất cả các bậc Thánh phàm,

Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa.

 

Người nào có sắm ra vật thực,

Đặng cúng dường tự tứ Tăng thời,

Hiện tiền phụ mẫu của người,

Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.

 

Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi,

Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên,

Như còn cha mẹ hiện tiền,

Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ trường.

 

Như cha mẹ bảy đời quá vãng,

Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung,

Người thời tuấn tú hình dung,

Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.

 

Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng,

Phải tuân theo thể thức sau này:

Trước khi thọ thực đàn chay,

Phải cầu chú nguyện cho người tín gia.

 

Cầu thất thế mẹ cha thí chủ,

Định tâm thần quán đủ đừng quên,

Cho xong định ý hành thiền,

Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.

 

Khi thọ dụng, nên an vật thực,

Trước Phật đài hoặc tự tháp trung,

Chư Tăng chú nguyện viên dung,

Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa.

 

Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,

Mục Liên cùng Bồ-tát chư Tăng,

Đồng nhau tỏ dạ vui mừng,

Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn.

 

Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy,

Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan,

Mục Liên bạch với Phật rằng:

Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn.

 

Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo,

Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra,

Như sau đệ tử xuất gia,

Vu Lan bồn pháp dùng mà độ sanh.

 

Độ cha mẹ còn đương tại thế,

Hoặc bảy đời có thể đặng không?

Phật rằng: Lời hỏi rất thông,

Ta vừa muốn nói con liền hỏi theo.

 

Thiện nam tử, Tỳ-kheo nam nữ,

Cùng Quốc vương, Thái tử, Đại thần,

Tam công, Tể tướng, bá quan,

Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần.

 

Như chí muốn đền ơn cha mẹ,

Hiện tại cùng thất thế tình thâm,

Đến rằm tháng bảy mỗi năm,

Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về.

 

Chính ngày ấy Phật đà hoan hỷ,

Phải sắm sanh bá vị cơm canh,

Đựng trong bình bát tinh anh,

Chờ giờ tự tứ chúng Tăng cúng dường.

 

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ,

Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi,

Cùng cầu thất thế đồng thì,

Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên.

 

Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp,

Lại xa lìa nạn khổ cực thân,

Môn sanh Phật tử ân cần,

Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên.

 

Thường cầu nguyện thung huyên an hảo,

Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh,

Ngày rằm tháng bảy mỗi năm,

Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền.

 

Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,

Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng,

Ấy là báo đáp thù ân,

Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu.

 

Đệ tử Phật lo âu gìn giữ,

Mới phải là Thích tử thiền môn,

Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn,

Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan.

 

Mục Liên với bốn ban Phật tử,

Nguyện một lòng tín sự phụng hành,

Trước là trả nghĩa sanh thành,

Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.

 

Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)

 

PHẬT NÓI

KINH BÁO ĐÁP CÔNG ƠN CHA MẸ

 

Chắc cũng có ông bà cha mẹ, Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh, Luân hồi sanh tử, tử sanh, Lục thân đời trước, thi hài còn đây.

 

Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:

 

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,

Xá Vệ thành Kỳ thụ viên trung,

Chơn Tăng câu hội rất đông,

Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.

 

Lại cũng có các hàng Bồ tát,

Hội tại đây đủ mặt thường thường,

Bấy giờ Phật lại lên đường,

Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.

 

Ðáo bán lộ đành rành mắt thấy,

Núi xương khô bỏ đấy lâu đời,

Thế Tôn bèn vội đến nơi,

Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.

 

Ðức A Nan trong lòng ái ngại,

Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương,

Vội vàng xin Phật dạy tường:

“…Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài.

 

Ai ai cũng kính Thầy dường ấy,

Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?”

Phật rằng: trong các môn đồ,

Người là đệ tử đứng đầu dày công.

 

Bởi chưa biết đục trong chưa rõ,

Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,

Ðống xương dồn dập bấy lâu,

Cho nên trong đó biết bao cốt hài.

 

Chắc cũng có ông bà cha mẹ,

Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,

Luân hồi sanh tử, tử sanh,

Lục thân đời trước, thi hài còn đây.

 

Ta lễ bái kỉnh người tiền bối,

Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa,

Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa,

Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.

 

Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ,

Phân làm hai, bên nữ bên nam,

Ðể cho phân biệt cốt phàm,

Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.

 

Ðức A Nan trong lòng tha thiết,

Biết làm sao phân biệt khỏi sai,

Ngài bèn xin Phật tỏ bày,

Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.

 

Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt,

Cách đứng đi ăn mặc phân minh,

Chớ khi rã xác tiêu hình,

Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.

 

Phật mới bảo A Nan nên biết,

Xương nữ nam phân biệt rõ ràng,

Ðàn ông xương trắng nặng quằn,

Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.

 

Người có biết cớ sao đen nhẹ,

Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,

Sanh con ba đấu huyết ra,

Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.

 

Vì cớ ấy hao mòn thân thể,

Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai,

A Nan nghe vậy bi ai,

Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.

 

Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo,

Phương pháp nào báo hiếu song thân,

Thế Tôn mới bảo lời rằng:

Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe.

 

Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc,

Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang,

Tháng đầu, thai đậu tợ sương,

Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.

 

Tháng thứ nhì dường như sữa đặc,

Tháng thứ ba như cục huyết ngưng,

Bốn tháng đã tượng ra hình,

Năm tháng ngũ thể hiện sanh rõ ràng.

 

Tháng thứ sáu lục căn đều đủ,

Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương,

Lại thêm đủ lỗ chân lông,

Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn.

 

Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ,

Chín tháng thì đầy đủ vóc hình,

Mười tháng là đến kỳ sanh,

Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.

 

Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu,

Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung,

Làm cho cha mẹ hãi hùng,

Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân.

 

Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc,

Cũng ví như được bạc được vàng,

Thế Tôn lại bảo A Nan,

Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin.

 

Ðiều thứ nhất giữ gìn thai giáo,

Mười tháng trường chu đáo mọi bề,

Thứ hai sanh đẻ gớm ghê,

Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.

 

Ðiều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng,

Cực đến đâu bền vững chẳng lay,

Thứ tư ăn đắng nuốt cay,

Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con.

 

Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ,

Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con,

Thứ sáu, sú nước nhai cơm,

Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê.

 

Ðiều thứ bảy không chê ô uế,

Giặt đồ dơ của trẻ không phiền,

Thứ tám chẳng nỡ chia riêng,

Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo.

 

Ðiều thứ chín miễn con sung sướng,

Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam,

Tính sao có lợi thì làm,

Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm.

 

Ðiều thứ mười chẳng ham chau chuốt,

Dành cho con các cuộc thanh nhàn,

Thương con như ngọc như vàng,

Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.

 

Phật lại bảo A Nan nên biết:

Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người,

Mười phần mê muội cả mười,

Không tường ơn trọng đức dày song thân.

 

Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức,

Không xót thương dưỡng dục cù lao,

Ấy là bất hiếu mặc giao,

Thì những người ấy đời nào nên thân.

 

Mẹ sanh con cưu mang mười tháng,

Cực khổ dường gánh nặng trên vai,

Uống ăn chẳng đặng vì thai,

Cho nên thân thể hình hài kém suy.

 

Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết,

Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề,

Ví như thọc huyết trâu dê,

Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan.

 

Con còn nhỏ phải năng chăm sóc,

Ăn đắng cay bùi ngọt phần con,

Phải tắm, phải giặt, rửa trôn,

Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì.

 

Nằm phía ướt con thì phía ráo,

Sợ cho con ướt áo, ướt chăn,

Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình,

Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.

 

Trọn ba năm bú nương sữa mẹ,

Thân gầy mòn nào nệ với con,

Ðến khi vừa được lớn khôn,

Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng.

 

Cho đi học mở thông trí tuệ,

Dựng vợ chồng có thể làm ăn,

Ước mong con được nên thân,

Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.

 

Con đau ốm tức thì lo chạy,

Dầu tốn hao cách mấy cũng đành,

Khi con căn bệnh đặng lành,

Thì cha mẹ mới an tâm định thần.

 

Công dưỡng dục sánh bằng non biển,

Cớ sao con chẳng biết ơn này,

Hoặc khi lầm lỗi bị rầy,

Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang.

 

Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt,

Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi,

Bà con chẳng kể ra chi,

Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường.

 

Lời dạy bảo song đường không kể,

Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng,

Trái ngang chóng báng mọi đàng,

Ra vào lui tới mắng càn người trên.

 

Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng,

Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn,

Lớn lên theo lối hung hăng,

Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung.

 

Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ,

Nết tập quen làm sự trái ngang,

Nghe lời dụ dỗ quân hoang,

Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.

 

Trước còn tập theo thời theo thế,

Thân lập thân tìm kế sanh nhai,

Hoặc đi buôn bán kiếm lời,

Hoặc vào quân lính với đời lập công.

 

Vì ràng buộc đồng công mối nợ,

Hoặc trở ngăn vì vợ vì con,

Quên cha quên mẹ tình thâm,

Quên xứ quên sở lâu năm không về.

 

Ấy là nói những người có chí,

Chớ phần nhiều du hý mà thôi,

Sau khi phá hết của rồi,

Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.

 

Theo trộm cướp hoặc là bài bạc,

Phạm tội hình, tù ngục phải vương,

Hoặc khi mang bệnh giữa đường,

Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng.

 

Hay tin dữ, bà con cô bác,

Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu,

Thương con than khóc ưu sầu,

Có khi mang bệnh đui mù vấn vương.

 

Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ,

Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn,

Hoặc nghe con chẳng lo lường,

Trà đình tửu điếm phố phường ngao du.

 

Cứ mài miệt với đồ bất chánh,

Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang,

Làm cho cha mẹ than van,

Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.

 

Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu,

Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều,

Ốm đau đói rách kêu rêu,

Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương.

 

Phận con gái còn nương cha mẹ,

Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa,

Cần lao phục dịch trong nhà,

Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi.

 

Song đến lúc tùng phu xuất giá,

Lo bên chồng chẳng xá bên mình,

Trước còn lai vãng viếng thăm,

Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà.

 

Quên dưỡng dục song thân ơn trọng,

Không nhớ công mang nặng đẻ đau,

Chẳng lo báo bổ cù lao,

Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay.

 

Nếu cha mẹ rầy la quở mắng,

Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng,

Chớ chi chồng đánh liên miên,

Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.

 

Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ,

Nói không cùng nghiệp dữ phải mang,

Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng,

Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay.

 

Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi,

Ðập vào mình, vào mũi vào hông,

Làm cho các lỗ chân lông,

Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân.

 

Ðến hôn mê tâm thần bất định,

Một giây lâu mới tỉnh than rằng,

Bọn ta quả thiệt tội nhơn,

Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù.

 

Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc,

Ruột gan dường như nát như tan,

Tội tình khó nỗi than van,

Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu.

 

Trước Phật tiền ai cầu trần tố,

Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân,

Làm sao báo đáp thù ân,

Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình.

 

Phật bèn dụng phạm thinh sáu món,

Phân rõ cùng Ðại chúng lóng nghe,

Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề,

Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.

 

Ví có người ơn sâu dốc trả,

Cõng mẹ cha tất cả hai vai,

Giáp vòng hòn núi Tu di,

Ðến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền.

 

Ví có người gặp cơn đói rét,

Nuôi song thân dâng hết thân này,

Xương nghiền thịt nát phân thây,

Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng.

 

Ví có người vì công sanh dưỡng,

Tự tay mình khoét thủng song ngươi,

Chịu thân mù tối như vầy,

Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.

 

Ví có người cầm dao thật bén,

Mổ bụng ra, rút hết tâm can,

Huyết ra khắp đất chẳng than,

Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.

 

Ví có người dùng ngàn mũi nhọn,

Ðâm vào mình bất luận chỗ nào,

Tuy là sự khó biết bao,

Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.

 

Ví có người vì ơn dưỡng dục,

Tự treo mình cúng Phật thế đèn,

Cứ treo như vậy trọn năm,

Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.

 

Ví có người xương nghiền ra mỡ,

Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình,

Xương tan thịt nát chẳng phiền,

Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.

 

Ví có người vì công dưỡng dục,

Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan,

Làm cho thân thể tiêu tan,

Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.

 

Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi,

Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn,

Ðồng thinh bạch Phật lời rằng,

Làm sao trả đặng thâm ân song đường?

 

Phật mới bảo các hàng Phật tử,

Phải lóng nghe ta chỉ sau này,

Các ngươi muốn đáp ơn dày,

Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền.

 

Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng,

Cùng ăn năn những tội lỗi xưa,

Cúng dường Tam Bảo sớm trưa,

Cùng là tu phước chẳng chừa món chi,

 

Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ,

Thập phương Tăng đều dự lễ này,

Sắm sanh lễ vật đủ đầy,

Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.

 

Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ,

Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn,

Ấy là báo đáp thù ân,

Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.

 

Mình còn phải cần chuyên trì giới,

Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn,

Những lời ta dạy đinh ninh,

Khá tua y thử phụng hành đừng sai.

 

Ðược như vậy mới là khỏi tội,

Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,

Trong năm đại tội kể ra,

Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay.

 

Sau khi chết bị đầy vào ngục,

Ngũ vô gián, cũng gọi A-tỳ,

Ngục này trong núi Thiết vi,

Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.

 

Trong ngục này hàng ngày lửa cháy,

Ðốt tội nhân hết thảy thành than,

Có lò nấu sắt cho tan,

Rót vào trong miệng tội nhân hành hình.

 

Một vá đủ cho người thọ khổ,

Lột thịt da đau thấu tâm can,

Lại có chó sắt, rắn gang,

Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn.

 

Ở trong ngục có giường bằng sắt,

Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong,

Rồi cho một ngọn lửa hồng,

Nướng quay chúng nó da phồng thịt thau.

 

Móc bằng sắt, thương đao, gươm giáo,

Trên không trung đổ tháo như mưa,

Gặp ai chém nấy chẳng chừa,

Làm cho thân thể nát nhừ như tương.

 

Những hình phạt vô phương kể hết,

Mỗi ngục đều có cách trị riêng,

Như là xe sắt phân thây,

Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le.

 

Chớ chi đặng chết liền rất đỡ,

Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân,

Ngày đêm chết sống muôn lần,

Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.

 

Sự hành phạt tại A-tỳ ngục,

Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,

Chúng ngươi đều phải ân cần,

Thừa hành các việc phân trần khoảng trên.

 

Nhứt là phải kinh này in chép,

Truyền bá ra cho khắp đông tây,

Như ai chép một quyển này,

Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.

 

Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy,

Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên,

Do theo nguyện lực tùy duyên,

Chơn Phật ủng hộ y như sở nguyền.

 

Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh,

Lại hóa sanh về cảnh thiên cung,

Khi lời Phật giảng vừa xong,

Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.

 

Lại phát nguyện thà thân này nát,

Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài,

Dầu cho lưỡi kéo trâu cày,

Ðến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên.

 

Ví như bị bá thiên đao kiếm,

Khắp thân này đâm chém phân thây,

Hoặc như lưới trói thân này,

Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai.

 

Dầu thân này bị cưa bị chặt,

Phân chia ra muôn đoạn rã rời,

Ðến trăm ngàn kiếp như vầy,

Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên.

 

Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ,

Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh,

Ngày sau truyền bá chúng sanh,

Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành.

 

Phật mới bảo A Nan nên biết,

Quyển kinh này quả thiệt cao xa,

Ðặt tên “Báo Hiếu Mẹ Cha”,

Cùng là “Ân Trọng” thiệt là chơn kinh.

 

Các ngươi phải giữ gìn châu đáo,

Ðặng đời sau y giáo phụng hành,

Sau khi Phật dạy rành rành,

Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui.

 

Thảy một lòng vâng theo lời Phật,

Và kính thành tin chắc vẹn truyền,

Ðồng nhau tựu tại Phật tiền,

Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.

 

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần).

Bình luận


Bài viết khác của tác giả

  1. KINH BÁO ĐÁP ĐỀN CÔNG ƠN CHA MẸ

Bài viết mới

  1. VƯỢT LÊN CHÍNH MÌNH
  2. THỰC HÀNH TRONG ĐỜI SỐNG THƯỜNG NHẬT
  3. CHINH PHỤC MỤC TIÊU