SỨC MẠNH CỦA SUY LUẬN TRÊN TRÍ NHỚ

Trích: Tư Duy Dã Tràng; NXB Trẻ

10/09/2025
18 lượt xem

“Người thầy nhồi kiến thức, bắt trò học thuộc lòng, chỉ là sự thú nhận chính mình cũng chưa nắm vững điều mình dạy. Người thầy hiểu rõ và sâu mới có thể diễn giải một cách đơn giản, dễ hiểu và dễ nhớ. Hiện tượng nào cũng có thể lý giải một cách giản dị và dễ hiểu, cho dù phức tạp đến đâu.”

Trong những buổi học tập, các học trò thường chờ đợi từ nơi tôi những đề tài đã được học rồi, kiểu kiểm tra xem cả lớp đã học thuộc chưa. Nhưng các em ấy ngã ngửa khi những đề tài của tôi chưa bao giờ được học trước đó, dù chúng chỉ đòi hỏi ở các em một chút nỗ lực suy nghĩ và suy luận. Tôi xin đưa ra vài ví dụ cụ thể để minh họa cho bạn đọc tham khảo và dễ hiểu.

Trong một buổi hội thảo với một doanh nghiệp lớn, tôi đặt một câu hỏi trước mặt các lãnh đạo cao:

Nếu tôi khoá tất cả mọi người trong phòng này trong hai tháng sắp tới, không ai ra không ai vào, không cho liên lạc điện thoại với bên ngoài, thì doanh nghiệp có còn khả năng vận hành tốt không? Sẽ tồn tại được bao lâu?

Đây là một trường hợp thực với những câu hỏi thực cho một cử tọa thực. Câu hỏi đó tạo nên bầu không khí hơi căng thẳng, vì trong phòng có tất cả 60 lãnh đạo tham gia, trong đó có toàn bộ Hội đồng Quản trị, tất cả Ban Điều Hành, và tất cả các Giám đốc và Trưởng phòng. Tôi được chứng kiến mọi người rất ngạc nhiên, bỡ ngỡ, và chắc hẳn trong số họ, có người nghĩ câu hỏi của tôi quá hỗn láo với các lãnh đạo cao, hay ít nhất tôi phải điên lắm thì mới nghĩ tới những giả định vớ vẫn và không tưởng. Lúc đó tôi đã vui vẻ nhắc lại câu hỏi, nhưng lần này giải mã thêm tại sao có câu hỏi đó: nếu doanh nghiệp được tổ chức như một hệ thống, tạm gọi là một hệ sinh thái, thì thử hỏi, trên nguyên tắc doanh nghiệp có khả năng tiếp tục hoạt động tốt hay không?

Không ai có ý kiến gì, không ai giơ tay, không ai xin tôi làm rõ hơn vấn đề tôi đặt ra. Anh Chủ tịch, Tổng Giám đốc nhìn tôi với đôi mắt hoài nghi, và rõ ràng anh ấy cũng không hiểu chủ đích của tôi là gì. Không ai trong Hội đồng Quản trị cho ý kiến. Tôi biết rằng chẳng ai từng nghĩ tới một kịch bản như trên, không có giải pháp bày sẵn, và tất nhiên không có một ai sẵn sàng trao đổi về kịch bản cả. Để độc giả dễ hiểu, hôm đó tôi đã muốn giải thích một vấn đề quản trị trong doanh nghiệp (“ở đây ai là sếp”), rằng khi doanh nghiệp được quản trị bằng văn hóa thì sự vắng mặt của các sếp không ảnh hưởng mấy tới việc vận hành công ty.

Một câu hỏi như thế mà được đưa ra bên Châu Âu hay Châu Mỹ sẽ có khả năng cao được chiếu cố nồng nhiệt, mọi người sẽ giơ tay, tranh nhau phát biểu, và cuối cùng anh lãnh đạo sẽ đề nghị thành lập một nhóm nghiên cứu cùng làm việc trên giả thuyết là “chuyện gì sẽ xảy ra nếu tất cả lãnh đạo của công ty đều vắng mặt cùng một thời điểm”, mà vẫn biết rằng xác suất của kịch bản vô cùng nhỏ.

Tôi xin chọn một ví dụ thực khác. Tôi từng đặt một câu hỏi cho 300 học viên trong cử tọa: Giả định rằng nhà nước thông báo hủy bỏ mọi kỳ thi, bất kỳ ngành nào và cấp độ nào, thì điều gì sẽ xảy ra? Những ai sẽ phải làm gì để, nếu cần, thay thế sự thiếu vắng của các kỳ thi? Câu hỏi này cũng làm mọi học viên bỡ ngỡ, không bạn nào giơ tay để đưa ra một ý kiến gì, thậm chí không ai dám bình luận. Riêng tôi còn nghi ngờ là có học viên thầm nghĩ rằng tôi điên chăng. Cuối cùng tôi đành thất vọng. Câu hỏi có khó gì cho cam, chỉ cần các bạn bắt đầu suy nghĩ chuyện “thi cử để làm gì?”. Rõ ràng quá, nhiều học viên trong nước ngại động viên trí não, chắc hẳn các bạn ấy thầm nghĩ rằng trong nước luôn luôn có người nghĩ hộ mình và tất nhiên lèo lái mình tùy tiện. Nếu cùng một câu hỏi được đặt tại nước Anh hay Pháp thì câu chuyện sẽ vui vẻ nhộn nhịp biết bao suốt một buổi học dài sôi nổi.

Bạn ạ, suốt sự nghiệp tôi đã luôn luôn làm việc như thế, với tinh thần thách thức trí tuệ, thi đấu tư duy trên những đề tài mới mẻ, vì tôi tin rằng những kịch bản kì quái có khả năng kích thích và động viên, để đưa tới sự chuyển hoá cách tân. Tôi phải nhìn nhận cách dạy học của mình không phù hợp lắm với thói quen học tập ở nhiều nơi trong nước nhà. Ở đây là thầy dạy trò học thuộc. Thầy dạy đến đâu, trò cố học thuộc hết đến đó. Cái gì không dạy thì không biết, và trò rất lo lắng nếu như vào mùa thi, có câu hỏi nào mà thầy chưa dạy trong lớp. Nhân viên thích nghe lệnh. Học trò thích trả bài thuộc lòng. Rất nhiều người di chuyển như bầy đàn, cùng bầy đàn, vì bầy đàn, có lẽ với tinh thần yên chí chắc hẳn đã có người suy nghĩ hộ mình? Chẳng phải việc mỗi người động viên trí tuệ của mình mới tạo nên một sân chơi với hàng trăm hàng nghìn ý kiến riêng tư và độc đáo sao?

Trong những buổi khác, tôi thường thách thức các bạn tham gia với những câu hỏi luôn luôn bất ngờ và ngộ nghĩnh. Mục tiêu của tôi là tạo cơ hội để học viên trau chuốt khả năng lý luận. Tôi xin đưa thêm vài ví dụ. Tôi từng hỏi trong các lớp Thạc sĩ:

-Giả định trong doanh nghiệp của các em, ban lãnh đạo bắt buộc mọi báo cáo phải viết bằng Anh ngữ thì việc đó có khả thi không, có làm cho các lãnh đạo sớm học được Anh ngữ không, có giúp được gì cho việc quốc tế hoá không? Việc này đã có công ty nào triển khai chưa, với kết quả nào?

-Giả định nước ta nhân đôi giá biểu của tất cả nông sản thì chúng ta có thực sự giúp được gì cho người nông dân không? Việc này có khả thi cho toàn nền kinh tế hay không?

Trước những câu hỏi mang tính đột phá như vậy, đáng lẽ tôi phải gặp một sự hứng thú nào đó. Nhưng phản ứng của học trò đã làm cho tôi vô cùng thất vọng. Buồn nhất cho tôi là đã có nhiều em thẳng thắn nhận xét: thầy ơi, chúng em chưa bao giờ được học đề tài này nên không biết. Tôi chẳng ngạc nhiên với những phản ứng như thế, nhưng tôi cảm nhận được rằng các em chưa bao giờ được học những thứ như lý luận, suy diễn, quy nạp, mô phỏng… Nói tóm lại, các em không biết vận động lý trí để tiếp tục cuộc trao đổi, đã dừng chân mau chóng trước một câu hỏi đáng lẽ phải mở cửa cho việc sáng tạo, đáng lẽ phải khởi động trí tuệ, trí tưởng tượng, sự ham muốn nghiên cứu một đề tài nào mới.

Vào những năm 2006-2011, tôi dạy lớp “Quy hoạch vùng và Kinh tế đô thị” tại Đại học kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh. Cứ đến kỳ thi, tôi cho phép tất cả sinh viên đem laptop, điện thoại vào lớp, và đây không phải một thói quen của nhà trường. Có thầy cô nhắc khéo tôi là các sinh viên sẽ lợi dụng cơ hội để chép, cho nên cấm đem máy điện tử vào lớp là một quyết định hợp lý. Thú thật, tôi không hiểu những nhận xét đơn giản này vì nào tôi có ý định đòi các em “trả bài” đâu! Đến khi mọi người nhận được đề thi thì không còn ai buồn mở laptop ra tham khảo làm gì ,với những câu hỏi như:

-Tại sao ở các thành phố nói chung giao thông thường ùn tắc? Lý do gốc là gì?

-Tại sao ở Việt Nam, nhà mặt tiền lại đắt hơn nhà trong hẻm. Nếu như thế thật thì tại sao người ta không mở thêm nhiều đường để có thêm nhiều mặt tiền? Nếu chứng minh được rằng sống trong hẻm tốt hơn cho sức khỏe thì sao?

-Giả định một thành phố chỉ có một con đường thật dài, không có ngã ba hay ngã tư, liệu còn ùn tắc giao thông hay không?

Nhưng “đáng sợ” hơn cho sinh viên là tôi không chấm bài viết, mà chỉ sử dụng bài viết để gọi từng trò lên bảng và trao đổi trực tiếp về bài viết trước khi cho điểm. Kỳ thi là một cuộc vấn đáp chứ không phải một cuộc chấm bài viết. Tôi hỏi tại sao em đã viết như thế này, em nghĩ sao nếu giả định như… Rất nhiều bỡ ngỡ trước phương pháp làm việc đó. Tôi đã phải giải thích rằng ý muốn thực của mình là xem khả năng suy luận của sinh viên đến đâu, xem các em có biết vận động lý trí để suy nghĩ hay không? Tôi nói luôn rằng mình quan tâm đến khả năng vận động lý trí hơn là đến kết quả (có kẹt xe, ùn tắc hay không trong đô thị), cũng vì vậy tôi mới biến một bài thi viết thành một cuộc thi vấn đáp trực tiếp!

Bạn đọc hãy hiểu rằng tôi không muốn “quay” học trò mà chỉ muốn xem khả năng họ phản ứng bằng lý trí. Xin thưa luôn với bạn đọc là tôi đã thất vọng não nề và đã rút ra một bài học, rằng vào khoảng 80% học trò không biết hoặc không muốn khởi động trí óc của mình. Các em ấy gãi đầu một cách bất bình, ngẩn người ra một hồi lâu, và không nói ra lời trước những câu hỏi vô cùng đơn giản của tôi.

Từ đó tôi mới hiểu được thế nào là phương pháp học thuộc lòng. Bất cứ một đề tài nào sẽ có câu trả lời như sau: “Tôi biết vì tôi đã được học”, hay “Tôi không biết vì tôi chưa bao giờ được học”. Sẽ không có trao đổi thao tác, sẽ không có ý muốn làm cho đề tài phong phú thêm. Và đây, tôi thầm nghĩ, chính là lý do chúng ta có ít nhóm nghiên cứu, ít trao đổi, ít sáng tạo nếu so sánh với một số quốc gia khác. Chúng ta có ít bằng chế tạo, ít thủ tục đăng ký sáng chế, và hình như việc đổi mới, chuyển hóa, phát huy là việc của ai khác chứ không phải của mình. Tóm lại, ở nước ta, phần lớn các cuộc thi cử chỉ là để đo trí nhớ. Phần này là phần bẩm sinh, nên sinh viên nào may mắn có trí nhớ tốt sẽ được điểm cao suốt học trình cho đến cấp cao nhất. Mô thức làm việc này vô cùng bất công với những em sinh viên bỏ công tự học, đầu tư thời gian vào việc nghiên cứu. Và cũng vì vậy mà “việc tự học” sẽ còn là một đề tài chưa tới hồi kết.

Chính vì ít sử dụng lý trí mà chúng ta rất thích mua những cuốn sách trao cho mình những kiến thức nhất định, thậm chí cố định. Sách về quản trị sẽ bán thua sách “12 kỹ năng lãnh đạo nào cũng phải thuộc”. Sách về triết lý làm giàu sẽ không được chuộng bằng “3 bí quyết để trở thành triệu phú trong một đêm”. Sách về khởi nghiệp sẽ bán ít hơn “Không cần vốn, 4 bí quyết để khởi nghiệp thành công sau 1 năm”.

Ở đây, tôi chưa nói tới tư duy hệ thống, mà mới chỉ làm cho độc giả khởi động được một bộ máy tuyệt vời mà vũ trụ tặng mỗi chúng ta: đó là khối lý trí, khả năng suy luận, khả năng động viên bộ não. Những khả năng này chỉ có thể tới từ sự quan sát, lắng nghe những người đi trước tới tự thân thực hành, vừa thực hành vừa suy nghĩ, vừa suy nghĩ vừa tham khảo sách vở và sự hướng dẫn của thầy cô, cố vấn. Nếu làm như thế thì vai trò của giáo viên và cố vấn mới vào đúng chỗ, không phải là để chấm điểm người thuộc bài, mà là hướng dẫn sinh viên lý luận và sáng tạo, đi vào con đường đột phá. Một bên là thuộc đường, đi mãi con đường mòn và cũng không bỏ công tìm một lộ trình nào mới. Bên kia là mở lối đi đối mặt với rủi ro, cân nhắc mỗi bước, đánh dấu nơi từng khám phá với những cảm nhận riêng tư, những tư duy riêng biệt. Khác nhau một trời, một vực. Thảo nào, tôi mới vỡ ra tại sao nhiều người trong chúng ta thích đi tìm vùng an toàn, trong khi mọi tiến bộ đều bắt buộc phải đi ra khỏi vùng an toàn. Thảo nào các luận văn đều ít nhiều chép lại những kiến thức sẵn có, trong khi trình độ cao đáng lẽ đòi hỏi sự bứt phá, chỉ cho phép những kiến thức sẵn có làm nên tảng cho một bước đột phá mới.

Không phải ngẫu nhiên mà trong văn hóa và ngôn ngữ của chúng ta, ít thấy dùng hoặc thậm chí thiếu khá nhiều từ về tư duy, biện luận. Bạn có quen sử dụng và hiểu nghĩa sâu những từ như giả thuyết (hypothesis), suy diễn (deduce), quy nạp (induce), phản biện (contradict), phản chứng (reason by the absurd), ngụy biện (sophism), ngoại suy (extrapolate), hay anecdotal evidence, devil’s advocate, post hoc…? Phần lớn các từ ngữ này được sử dụng nhiều trong toán học, vật lý, triết lý và pháp lý. Học xong những khái niệm này, tức lý luận trên các thành phần rồi, thì mới đến lượt lý luận với tổng thể, đó là tiến tới “tư duy hệ thống”! Ngôn ngữ của chúng ta cần phong phú thêm cho những công cuộc thách đố tư duy này, vì rõ hẳn từ điển của chúng ta không đủ những từ đáp ứng các phương pháp lập luận.

Tôi xin bạn cứ yên tâm, vì tôi sẽ không biến bạn thành luật sư hay nhà toán học hoặc triết gia. Đây không phải mục tiêu của quyển sách và cũng đã có rất nhiều sách dạy về những kỹ thuật liên quan. Nhưng bạn sẽ cần hiểu và nắm vững những phương pháp suy luận để áp dụng cho nhiều ngành nghề, nhiều công việc, hoặc đơn thuần hơn cho cuộc sống mang tính nhân văn và trí thức. Tư duy hệ thống sẽ tới sau, với tầm nhìn tổng thể, nhưng không thể tới trước khi khả năng lý luận được động viên tốt đẹp.

Vậy trước tiên, lý luận hệ thống là gì?

Trong ngữ cảnh của khoa học, lý luận hệ thống là một phương pháp tiếp cận (nghiên cứu và phân tích) các hệ thống phức tạp bằng cách xem xét và mô tả sự tương tác giữa các thành phần cấu thành hệ thống, mà vẫn biết rằng các thành phần này có thể chuyển biến theo thời gian hay không gian. Vẫn còn khó hiểu phải không bạn? Trong những trang sắp tới tôi sẽ cố gắng đơn giản hoá, bớt những định nghĩa phức tạp, mà sẽ đưa ra những ví dụ hàng ngày, bình dân và gần gũi.

Ở mức cao hơn, tư duy hệ thống là thái độ luôn luôn tìm hiểu tại sao cho mọi hoàn cảnh, hỏi mãi tại sao đến tận cốt lõi. Sau đó nếu cần đưa ra giải pháp thì sẽ trả lời những câu hỏi như thế nào, làm thế để làm gì, sẽ ảnh hưởng đến ai. Làm việc này giống như bắn một tín hiệu trong hệ thống với quan sát phản ứng của toàn hệ thống. Đến khi hiểu hệ thống có những kịch sĩ nào, đang làm gì, đi đâu, với chiến lược nào, với kết quả mong muốn nào, với giá phải trả là bao nhiêu, có bao nhiêu kịch sĩ sẽ hài lòng và có bao nhiêu thì không, lúc đó chúng ta sẽ dần dần nắm được vận mệnh – của mình và của người khác. Khi đến đó rồi, chúng ta mới cảm nhận được rõ ràng hơn toàn thế giới liên kết ra sao, dĩ vãng liên kết thế nào với hiện tại và tương lai (học lịch sử là học tư duy hệ thống áp dụng cho những diễn biến lịch sử). Và đúng lúc đó, mọi chuyện sẽ hiện ra rõ hơn, việc gì đáng làm, để cho ai, để đạt được kết quả gì. Người nắm tư duy hệ thống mới thực là người thức thời, hiểu lịch sử của mọi việc và lý do, rồi sẽ có khả năng dự báo cho tương lai. Người mang tư duy hệ thống sẽ ít khi lặp lại lỗi lầm vì đã thấu triệt tại sao mình thất bại hay thành công. Đến đây, có thể nói một cách chắc chắn rằng người mang tư duy hệ thống là người không bị lối tư duy nào ràng buộc và là một người tỉnh thức.

Tư duy hệ thống sẽ đưa tới hành động có hệ thống. Chỉ khi đó, việc làm của chúng ta mới thực sự có ích vì nó tham gia vào vùng tròn năng lượng và nuôi dưỡng của toàn hệ. Nó sẽ tìm sự sống trong hệ thống sẵn sàng đón nhận nó, và sẽ đóng góp giá trị cộng hưởng mà hệ thống rất cần để có thêm nguồn lực cho sự phát triển. Đến đây chúng ta mới thấy quá rõ việc thụ động học thuộc lòng và hành động thuộc lòng (đối với quy trình chẳng hạn) không thuộc một mạng lưới tạo giá trị tích cực nào, thậm chí hoàn toàn vô ích. Người học thuộc lòng như thế không tham gia vào được bất cứ một chuỗi giá trị hay mắt xích, mà chỉ như một sản phẩm lửng lơ và khó kết nối. Họ không đi từ nền tảng nội bộ (đầu vào) và cũng không phù hợp với kỳ vọng (đầu ra). Nói ngắn gọn, những kiến thức không được đổi mới, không lắp ráp được vào đâu, thì không thể mang giá trị thực tế.

Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng người thiếu tư duy hệ thống không thể lập luận mạch lạc, và sẽ bị dồn vào thế phải đi sao chép nhận thức của người mang tư duy hệ thống. Nói một cách khác, khi đó tất cả những gì chúng ta phát xuất ra đều là của người khác, từ đó ta dễ có khuynh hướng đi tới đạo văn vì đơn giản là chẳng còn lộ trình nào cho ta. Vào thời buổi của AI, chúng ta sẽ dễ yếu lòng đi chép lời văn của Al, mà Al thì lại có tư duy hệ thống, vì chính nó đã là một hệ thống. Thành thử chuyện khôi hài dễ có thể xảy ra là một số trong chúng ta sẽ phụ thuộc vào Al mỗi ngày một sâu, mỗi lúc một nặng, để tới nghiện hoặc làm một kiểu nô lệ trá hình. Làm việc kiểu như thế thì vô vọng, vì mình không phục vụ ai, mà cũng chẳng ai muốn mình phục vụ. Cung cách đó phủ nhận sự thật rằng mỗi con người đều được sinh ra với sở trường và tiềm năng riêng biệt. Và nó đưa tới việc ôm chặt một mô hình, giống như một người sợ chết đuối nên phải ôm phao. Chỉ có những tổ chức khô cằn, hà khắc, với những chiến thuật cứng nhắc, không cần sáng tạo, và làm việc với quy trình (thay vì trí óc), mới mở chỗ cho kẻ học thuộc lòng và sao chép. Thật đáng tiếc!

Để kết luận, tôi xin trích một bài thơ của Thi hào Nguyễn Khuyến (1909) với tựa là “Tiến Sĩ Giấy”, công khai trào phúng về một hiện tượng từng phổ biến trong xã hội. Mong là ngày nay, hơn một trăm năm sau, chúng ta đã có đủ thời gian để chuyển hóa tốt hơn, mang giá trị tích cực hơn để phụng sự xã hội.

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới hời!

Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,

Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!