THIỀN THU NHỎ

Trích: Hiểu Biết Chính Mình – Thiền Và Tây Phương; Chuyển ngữ: Hội Nguyên Yên Bình; NXB Thiện Tri Thức @2025.

24/06/2025
57 lượt xem

Vào cuối những năm sáu mươi, một thành viên của Trung tâm Thiền Rochester đã hỏi Eric Fromm, “Thiền có giá trị như một liệu pháp tâm lý hay không?” Fromm được cho là đã trả lời, “Thiền là liệu pháp tâm lý duy nhất!” Nếu ai đó đọc bài báo của ông, Thiền Phật giáo và Phân tâm học, người ta sẽ tin rằng Fromm cũng sẽ nói, “Thiền chỉ là một liệu pháp tâm lý.” Mối quan hệ lẫn nhau giữa hai điều này, Thiền và liệu pháp tâm lý, và mối quan hệ giữa chúng với con người chúng ta là gì? Một số liệu pháp tâm lý tốt hơn có phải là Thiền trong bộ đồ ba mảnh không? Hay ngược lại, việc thực hành Thiền có khiến liệu pháp tâm lý trở nên thừa thãi không? Fromm, trích dẫn D. T. Suzuki, nói rằng:

Do đó, mục đích của Thiền là cứu chúng ta khỏi việc phát điên hay sự què quặt. Đây là những gì tôi muốn nói khi nói đến sự tự do, sự phát huy tất cả các xung lực sáng tạo và lòng từ vốn có sẵn trong trái tim chúng ta. Bình thường chúng ta không nhận ra rằng mình sở hữu tất cả các khả năng cần thiết để khiến bản thân hạnh phúc và yêu thương những người khác.

Fromm tiếp tục:

Mô tả này về mục đích của Thiền có thể được áp dụng mà không cần thay đổi như một mô tả về những gì phân tâm học mong muốn đạt được: sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của chính mình, sự đạt được tự do, hạnh phúc và tình yêu, sự giải phóng năng lượng, sự cứu rỗi, khỏi tình trạng điên loạn hay què quặt.

Đó là một suy nghĩ hấp dẫn.

Khi Thiền được du nhập vào thế giới phương Tây, nó được xem xét một cách tự nhiên trong khuôn khổ và góc nhìn của những gì đã biết – ba khung tham chiếu cơ bản được đưa ra: triết học, tôn giáo và liệu pháp tâm lý. Nhiều công trình đáng kể đã được thực hiện để chỉ ra mối quan hệ giữa Thiền và tác phẩm của Wittgenstein, Heidegger và Whitehead, tạm nêu tên ba triết gia; và trong lĩnh vực tôn giáo là các tác phẩm của Thánh John Đạo Cơ đốc, Meister Eckhart, Thánh Benedict và tác giả ẩn danh của Đám Mây của Sự Không Biết đều được so sánh với giáo lý Thiền tông. Điều tương tự đã xảy ra khi Phật giáo lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc. Ở đó, nó phải tìm cách hài hòa với Nho giáo và Đạo giáo. Thật vậy, những hạn chế áp đặt lên tư duy của chúng ta do sự tuân thủ các nhãn mác trở nên rõ ràng khi ta nhận ra rằng những gì mình biết như là Phật giáo Thiền tông không chỉ đơn thuần là kết quả của riêng Phật giáo mà còn là sự kết hợp của nhiều nhánh trí tuệ và hiểu biết. Khi một người nhìn vào “chân lý,” đó là thực tại vô tướng. Nhưng để truyền tải một số hương vị của nó cho những người khác, từ ngữ, khái niệm và ý tưởng trở nên cần thiết; và những gì gần gũi nhất, những gì người khác có thể hiểu được, được sử dụng. Theo cách này, có vẻ như có sự giao tiếp. Nhưng việc tiếp thu từ ngữ, khái niệm và ý tưởng bao gồm việc truyền tải cả kỳ vọng cũng như ý nghĩa. Những kỳ vọng này (hoặc thái độ và tư duy) lại chính là những bộ lọc mà chúng ta sử dụng để sửa đổi trải nghiệm,

Thiền đã xuất hiện vào những thời kỳ khó khăn ở phương Tây; hiếm có một trung tâm Thiền nào tồn tại mà không trải qua tình trạng bất ổn. Nhìn bề ngoài, chúng ta có thể chỉ tay vào các nhà lãnh đạo; nhiều người dường như đã làm mất lòng phe phái bởi rượu chè, tình dục, trò chơi quyền lực, sự ngoan cố. Nhưng khi xem xét kỹ hơn, chúng ta sẽ sớm xua tan ảo tưởng rằng ta biết phải đổ lỗi cho ai, bằng cách chỉ ra rằng sự bội giáo này tự nó là triệu chứng của một vấn đề lớn hơn: Làm thế nào một nền tâm linh theo phong cách phương Đông, được nuôi dưỡng chủ yếu trong 1500 năm sau khi Đức Phật ra đời ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc, lại phù hợp với thế giới phương Tây? Không giải quyết được câu hỏi này một cách nghiêm túc có thể là nguyên nhân gây ra nhiều hỗn loạn và nhầm lẫn xung quanh việc thực hành. Điều khiến chúng ta khó chịu không phải là sự kiện mà là sự vi phạm những kỳ vọng. Ví dụ, nếu chúng ta không được tăng lương vào cuối tháng, chúng ta không buồn trừ khi chúng ta mong đợi điều đó. Thường thì lương sẽ đến vào cuối tháng và thường thì nó được gửi vào ngân hàng mà không có câu hỏi hay ý kiến nào. Tuy nhiên, nếu vào đầu tháng, có người thông báo rằng chúng ta sẽ được tăng lương, bất kể chúng ta có xứng đáng hay không, chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu và thất vọng nếu tấm séc lại không thể hiện điều đó.

Nếu Thiền là một tôn giáo hay liệu pháp tâm lý, thì những gì phương Tây chúng ta mong đợi ở tôn giáo hay liệu pháp tâm lý, ta sẽ mong đợi nó ở Thiền (và có lẽ còn nhiều kỳ vọng hơn nữa). Nếu những kỳ vọng này không được đáp ứng thì hoặc là Thiền đã thất bại, chúng ta đã thất bại, hoặc những người giảng dạy Thiền đã thất bại. Nếu một người giác ngộ là một dạng thánh nhân và người này không hành xử như một vị thánh, thì có điều gì đó không ổn với vị ấy hoặc với Thiền. Thiền được cho rằng sẽ giúp chúng ta thoát khỏi những kỳ vọng của mình thì không ích lợi gì, bởi vì bản thân điều này là một kỳ vọng được nhúng vào quan điểm trị liệu tâm lý của chúng ta rằng ta có thể làm cho vô thức trở nên có ý thức. Nơi nào có bản năng, hãy để cái tôi ở đó. Điều này, như Fromm chỉ ra, có nghĩa là chúng ta vượt qua các bộ lọc của ngôn ngữ, logic và những điều kiêng kỵ cho thấy kỳ vọng của chúng ta.

Việc xem Thiền là liệu pháp tâm lý duy nhất, coi đó là phương tiện mà theo thuật ngữ của Suzuki, chúng ta có thể “phát huy hết mọi xung lực sáng tạo và nhân từ của mình [và khám phá ra] rằng chúng ta sở hữu mọi khả năng cần thiết giúp bản thân hạnh phúc và yêu thương lẫn nhau,” có quan điểm đối lập rằng Thiền chỉ là một liệu pháp tâm lý. Đây là niềm tin mà nhiều vị thầy đã cố ý hoặc vô thức dạy theo cách này hay cách khác và đã có quá nhiều người học chấp nhận. Vào một thời điểm nào đó, Thiền được cho là phương thuốc chữa bách bệnh, và với niềm tin đó, người ta kỳ vọng rằng bất kỳ ai ngồi bắt chéo chân trong hơn một giờ sẽ không còn tật bệnh nào, cả về thể chất lẫn tâm lý. Có bao nhiêu người đã ngồi thiền và hoàn toàn mong đợi rằng đó là giải pháp cho mọi vấn đề của cuộc sống? Quan điểm sai lầm này cũng được củng cố bởi những vị thầy chỉ ra những “lầm lỗi” của học trò, với ngụ ý rằng Thiền theo một cách nào đó sẽ có tác dụng xóa bỏ lỗi lầm và ngụ ý thêm rằng nếu không làm được như vậy, thì học viên đó chưa đủ “tiến bộ về mặt tâm linh.” Sự đánh giá về những học trò “cao cấp” bởi những học trò “sơ cơ” là đầy rẫy. Ngay cả lễ sám hối cũng bị làm hỏng bởi kỳ vọng này. Thay vì là cơ hội để suy ngẫm và ăn năn thực sự, nó đã trở thành cách mà người ta liên tục hứa với bản thân và những người khác về một tương lai tươi sáng hơn và tốt đẹp hơn với những “khuyết điểm” và “lỗi lầm” được xóa bỏ, mà không tính đến việc những khuyết điểm này thường là cái bóng của những gì tốt nhất và sáng nhất bên trong họ và việc xóa bỏ cái này sẽ có nghĩa là xóa bỏ cả những cái kia. Những đặc điểm tính cách và sự khác biệt về khí chất bị nhầm lẫn với khuyết điểm, và những khuyết điểm này cũng bị nhầm lẫn với klesà, hay sự nhiễm ô, Nhưng klesà phát sinh từ sự chia rẽ căn bản trong tính toàn vẹn của một người do đã mang thân xác con người và nhìn chung là phổ biến theo vô vàn tướng trạng khác nhau đối với tất cả chúng ta.

Liệu pháp tâm lý hiện đại ra đời như một đối trọng với tâm lý học hiện đại. Bức tranh mà Freud vẽ ra về bản ngã của thân chủ thu hút hay triệu hồi vô thức (giống như người Hà Lan đòi lại đất từ vịnh Zuider Zee bằng một hệ thống đê và đập) nói lên nhiều điều không chỉ về mục đích của nhà phân tâm học mà còn về mục đích của tâm lý học hiện đại: sự đối lập của nguyên tắc “thực tế” với nguyên tắc “lạc thú,” sự hòa nhập của Thượng Đế vào tâm lý, sự thuần hóa bản năng trong một phạm vi có lý trí – tất cả những điều này có xu hướng củng cố cho ảo tưởng rằng có một tác nhân tự chủ và riêng biệt đang kiểm soát – không chỉ là sáng tạo mà còn là khám phá của Freud. Điểm nhấn trong công trình của Freud không phải là nó “chữa khỏi” bệnh tâm lý mà là nó cung cấp một cách thức để nói về những diều vẫn chưa được xã hội chấp nhận khi ấy. Nó thực sự là một thần thoại mới được bao bọc trong thần thoại rộng lớn và bao trùm hơn của Khoa học. Tác giả Martin Gross nói rằng:

Khi một người có học thức mất niềm tin vào tôn giáo chính thống, họ cần một niềm tin thay thế có uy tín cho nửa sau của thế kỷ 20 như Kitô giáo trong nửa đầu. Tâm lý học và tâm thần học hiện đã đảm nhận vai trò đặc biệt đó. Chúng đưa ra niềm tin rộng rãi, lời hứa về một cơ hội tốt hơn để thú tội, những hoạt động huyền bí vô hình và một đội ngũ “linh mục” được đào tạo chuyên nghiệp, để tận tâm phục vụ các thân chủ trong hoạt động trị liệu trả tiền theo giờ.

Ông nói thêm: “Ngày nay, tâm lý học là một môn nghệ thuật, khoa học, một liệu pháp, tôn giáo, quy tắc đạo đức, lối sống, triết lý và giáo phái.”

Một nghiên cứu năm 1938 đã nhấn mạnh rằng liệu pháp tâm lý là đứa con của thời đại, trong đó chỉ ra rằng lý tưởng của liệu pháp tâm lý phương Tây có nhiều điểm tương đồng với lý tưởng của đạo Tin lành: “Chủ nghĩa cá nhân, tự lực, hy sinh bản thân, vun bồi sự giàu có và địa vị xã hội, và chủ nghĩa duy lý là những chủ đề thường thấy của cả hai.” Ngược lại, lý tưởng của liệu pháp Naikan và liệu pháp Morita của Nhật nhấn mạnh sự tôn trọng đối với uy quyền, lòng biết ơn đối với người trên và trách nhiệm đối với người dưới mình. Cũng không có sự nhấn mạnh mạnh mẽ vào “chủ nghĩa bình đẳng” hay “sự độc lập.” Các liệu pháp của Nhật Bản ít có xu hướng nhắm đến mục tiêu hơn và có xu hướng thừa nhận bản chất mạnh mẽ và quyết định hơn của các thế lực xã hội và môi trường bên ngoài.

Tuy nhiên, nói rằng liệu pháp tâm lý là sự thay thế cho Cơ đốc giáo có thể gây hiểu lầm; sẽ đúng hơn khi nói rằng giống như Cơ đốc giáo kết tinh từ một “chất keo” văn hóa trước đó, liệu pháp tâm lý cũng đã kết tinh từ chất keo của thế kỷ 20, một yếu tố chính của nó là sự hấp thụ Thượng đế vào tâm lý. “Đối với con người hiện đại lấy bản ngã làm trung tâm, viễn cảnh về bản thân thay vì Thượng đế ngự ở trung tâm của hệ thống triết học thế giới là vô cùng hấp dẫn.” Tiêu đề của một tờ báo quốc gia vào thời điểm phát hiện ra cấu trúc DNA có nội dung, GIỜ THÌ CÓ THỂ ĐẶT THƯỢNG ĐẾ QUA MỘT BÊN, và một cuốn sách khá đồ sộ và phổ biến về những phát triển gần đây của nghiên cứu di truyền học có tên là Ngày Thứ Tám của Sáng Thế.

Có một huyền thoại khác ẩn chứa trong tâm lý học hiện đại, huyền thoại về sự tiến bộ và tiến hóa. Tiến bộ là phương tiện để đạt được sự tiến hóa, và mục tiêu của sự tiến hóa theo cách hiểu hiện nay là để nhân loại (hay còn gọi là nhà kỹ trị) trở thành Thượng đế bằng cách “chinh phục” hoặc “khai thác” các lực của tự nhiên. Liệu pháp tâm lý là đỉnh cao của xu hướng tiến bộ này, vì mục đích cuối cùng của nó là giải cứu nhân loại khỏi chính động lực hướng tới sự hoàn hảo. Do đó, nó là hành động căn bản của sự tiến bộ. Norman O. Brown nói:

Phân tâm học cung cấp một khuôn khổ lý thuyết để khá phá những khả năng thoát khỏi cơn ác mộng của sự tiến bộ vô hạn và sự bất mãn vô hạn của Faust, một lối thoát khỏi chứng loạn thần kính của con người, một lối thoát khỏi lịch sử… Sự kim kẹp của bàn tay chết chóc từ quá khứ sẽ được nới lỏng, và con người sẽ sẵn sàng sống thay vì tạo ra lịch sử, tận hưởng thay vì trả nợ cũ và bước vào trạng thái Hiện hữu vốn là mục tiêu của Sự trở thành của anh ta.

Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi có quá nhiều phương pháp, phong cách và mục đích của liệu pháp tâm lý. Người ta chỉ cần nghỉ đến những cái tên vĩ đại – Freud, Jung Adler, Fromm, Horney, Klein, Frankl, Asseglioni, Reich, Rank, Erikson để nhận ra một loạt các nhà tiên tri đã xuất hiện trên bầu trời. Bạn có vấn đề về hôn nhân không? Vấn đề về sự bất lực, lạm dụng ma túy, lạm dụng tình dục, lạm dụng trẻ em, lạm dụng vợ, có quá ít năng lượng, quá nhiều năng lượng, thiếu tự tin? Thiếu tình yêu, sự sáng tạo, cá tính? Đừng sợ: một vài buổi trị liệu sẽ giải quyết được vấn đề, chúng sẽ có thể giải phóng ta, theo lời Fromm mượn từ Suzuki, thành “tất cả những xung lực sáng tạo và nhân từ sẵn có trong trái tim mình” và cho chúng ta thấy rằng “ta sở hữu tất cả các khả năng cần thiết để khiến mình hạnh phúc và yêu thương lẫn nhau.” Giờ đây, bình thường (ít nhất là ở thế giới phương Tây) là “phát huy hết tiềm năng của mình, “thể hiện bản thân,” “làm việc của mình,” chinh phục những chiều sâu của vịnh Zuider Zee không chỉ ở mặt vô thức mà còn ở khía cạnh tẻ nhạt của sự tồn tại, bằng cách biến nó thành niềm vui và thành tích. Với Madison Avenue ở phía trước và liệu pháp tâm lý ở phía sau, không có gì là không thể.

Mục đích của Thiền là đánh thức, nhưng vì giác ngộ không có các bước hay giai đoạn, không có nguyên nhân hay trở ngại, nên nói một cách nghiêm ngặt, nó không thể được gọi là “mục đích.” Có người đã nói về đức tin, “Nếu có đức tin, thì đó là tất cả.” Tương tự như vậy, chúng ta có thể nói, “Nếu giác ngộ, thì như thế là đủ.” Đó là điều tối thượng trong sự đơn giản của nó, nhưng không có nghĩa điều đó là dễ dàng. “Giác ngộ” có nghĩa là chúng ta sống ngay giữa những mâu thuẫn của chính mình và của thế giới. Chính việc nhìn nhận mâu thuẫn như là mâu thuẫn khiến chúng ta tiếp tục trôi lăn theo dòng sinh tử. Lực của sinh tử, sức sống và sự phấn chấn của nó, xuất phát từ ý chí muốn giải quyết mâu thuẫn. Bánh xe luân hồi xoay quanh các giải pháp và quyết định thay thế, để lại những phần mâu thuẫn chưa và không được giải quyết, sinh ra sự chì chiết và lo lắng. Việc không giải quyết mâu thuẫn, mà sống ngay chính giữa chúng, xem tâm hàng ngày như là việc không có lời hứa rằng sẽ có siêu anh hùng giải thoát người ta khỏi mọi ngõ cụt và tình thế tiến thoái lưỡng nan, là điều rất đau đớn; nó là phản sự sống (và cái chết) và là thứ từng được gọi là sự chuộc tội, một sự chuộc tội mà hơn nữa có thể kéo dài trong nhiều năm. Triệu Châu nói, “Chỉ cần ngồi xuống một cách yên lặng, chẳng hạn, trong 20 hoặc 30 năm và nếu bạn vẫn không hiểu, bạn có thể chặt đầu lão tăng này.” Ngồi xuống một cách yên lặng, không làm xáo động một ngọn cỏ, không tạo ra một gợn sóng. Với kỳ vọng tâm lý của người phương Tây về việc đòi lại vịnh Zuider Zee, xây dựng đập và kênh rạch, thì việc ngồi yên lặng này được hiểu như thế nào?

Tất nhiên, câu hỏi không thể tránh khỏi nảy sinh, “Vậy thì người ta không nên tìm đến liệu pháp tâm lý hay sao?” Nhưng đó là câu hỏi cần hỏi nhà trị liệu. Tìm kiếm liệu pháp, giải quyết xung đột và tình thế tiến thoái lưỡng nan cũng là một phần của cuộc sống hàng ngày, cũng giống như việc phàn nàn và rên rỉ về nỗi đau, về Đạo, về vị thầy, đều là tâm hàng ngày. Nếu một người có vấn đề về tài chính, người đó giải quyết vấn đề đó ở cấp độ tài chính, ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải cầm cố chiếc đồng hồ của mình. Nếu một người muốn thay đổi bản thân, hoặc một khía cạnh nào đó của bản thân, liệu pháp có thể hữu ích, nhưng nhà trị liệu là người phán đoán tốt nhất. Điều này đã từng được diễn đạt rất ngắn gọn trong một câu nói: “Hãy trả lại cho Caesar những gì thuộc về Caesar, và trả lại cho Chúa trời những gì thuộc về Chúa trời.”

Vậy thì mối liên hệ giữa Thiền và liệu pháp tâm lý là gì? Có một câu nói cổ của người Ấn Độ: “Có đá, thì không có chó. Có chó, thì không có đá.” Điều này có vẻ mang ý nghĩa là một ngày nọ khi một con chó đi tới sủa và cắn ai đó, người đó tìm khắp nơi một hòn đá để ném con chó nhưng không tìm thấy. Sau đó, anh ta tìm thấy một hòn đá, nhưng lúc đó con chó đã bỏ cuộc. Nhưng có một cách khác để hiểu điều đó. Khi nhìn vào một con chó bằng đá, người ta có thể ngưỡng mộ cách người nghệ sĩ đã nắm bắt được sự giống nhau, hình dáng của con chó; trong trường hợp này, người ta không nhìn thấy hòn đá. Hoặc người ta có thể ngưỡng mộ chất liệu đá, những thớ gân tuyệt vời chạy qua nó; trong trường hợp này, không có con chó nào cả.

Liệu pháp tâm lý liên quan đến hình thức và nội dung của tâm thức, Thiền liên quan đến chính tâm thức. Liệu pháp tâm lý hướng đến các tướng trạng của nhận thức, điều mà chắc chắn sẽ kết thúc trong xung đột và tranh đấu; Thiền hướng đến chính nhận thức không phản chiếu.

Sắc tức là Không, Không tức là Sắc

<><><>

Thiền sư Lâm Tế nói,

Những người đi trên con đường, tâm không có hình tướng và trải khắp mười phương:

Nơi mắt gọi là thấy,

Nơi tai gọi là nghe.

Nơi mũi gọi là ngửi,

Nơi miệng gọi là trò chuyện.

Nơi tay gọi là nắm bắt,

Nơi chân gọi là chạy và mang.

Nền tảng của nó là một sự tỏa sáng tinh khiết; khi chia tách, nó trở thành các phạm vi giác quan thống nhất hài hòa. Vì tâm là không tồn tại cho dù bạn đi tới bất cứ nơi nào, nên bạn tự do.

<><><>