VŨ TRỤ LÀ THIỀN ĐỊNH, THIỀN ĐỊNH LÀ VŨ TRỤ
Trích: Tuệ Trung Thượng Sĩ Thong Dong Giữa Đời; NXB Thế giới; Công ty Xuất bản Thiện Tri Thức, 2025

Khi thấy được thực tại “tâm của muôn vật tức Phật tâm”, thì thiền định là liên tục giữ gìn, hộ trì, bảo nhậm cái thấy ấy cho đến khi viên mãn, gọi là cái thấy biết của Phật (tri kiến Phật).
Nói, “tâm của muôn vật tức Phật tâm, Phật tâm cùng với tâm ta hợp”, sự kết hợp này, sự hợp nhất này phải tiến đến chỗ thường trực, không bị đứt quãng bởi những động niệm phiền não. Thiền tông gọi cái thấy thực tại, cái thấy tánh là “một niệm tương ưng” và phải thực hành cho đến lúc “niệm niệm tương ưng”, nghĩa là khoảnh khắc nào cũng tương ưng, không mất, khoảnh khắc nào cũng là Nó (bản tánh của tâm).
Đại Ấn (Mahamudra) và Đại Toàn Thiện (Dzogchen) đi theo thứ tự: cái Thấy, Thiền định, Hạnh, và Quả (dù nhanh hay chậm là tùy căn cơ, tùy người chướng ngại ít hay nhiều). Thiền định là tâm thường hợp nhất với Tánh, và Hạnh là mọi hành động thân, khẩu, ý đều khởi từ Tánh và hợp nhất với Tánh. Thiền định và Hạnh của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện tương đương với tiệm tu hay diệu tu của Thiền. Diệu tu trong cách nói của Thượng sĩ là Dưỡng chân:
Dưỡng chân
Hình hài suy yếu có gì đâu
Chẳng phải hạc già chạy tránh gà
Muôn biếc ngàn xanh lầm quê cũ
Góc biển chân trời để dưỡng chân.
Tóm lại, sau cái thấy, là thiền định và hạnh, chung cho cả ba Thiền, Đại Ấn và Đại Toàn Thiện.
Trong bài này chúng ta nghiên cứu thiền, thiền định của Tuệ Trung Thượng sĩ là thế nào.
Tâm của muôn pháp là Phật tâm
Phật tâm lại cùng tâm ta hợp
Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim.
(Phật tâm ca)
Thiền là thấy tánh, bản tánh của muôn pháp (pháp tánh) và đưa cuộc đời trần gian, thân, ngữ, tâm, cá nhân hợp (tương ưng) và hợp nhất hoàn toàn với tánh, pháp tánh.
Nói theo Mật giáo, đó là ba mật (thân, ngữ, tâm) của cá nhân, tương ưng với Thân, Ngữ, Tâm của chư Phật, gọi là Ba Mật tương ưng.
Thiền là thấy bản tánh của vũ trụ (pháp giới tánh) và an trụ trong pháp tánh đó cho đến lúc hợp nhất không hở sót với nó. Bởi thế ông không giới hạn thiền định trong vài tư thế của thân:
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền.
Một khi đã thấy pháp tánh hay pháp giới tánh thì hoạt động trong đó, làm gì cũng không ra ngoài pháp giới tánh, đây là thiền.
Thiền định là không lìa khỏi pháp giới tánh, mà bản tánh của pháp giới vốn định, “pháp vốn như nhiên suốt cổ kim”. Một khi đã thấy và sống được cái định vốn có của pháp giới thì đi đâu trong vũ trụ cũng vẫn thấy được và sống được pháp giới tánh, đây là thiền định của người thấy tánh, thấy pháp giới tánh.
Thế nên ông có những câu thoạt trông có vẻ ngược ngạo:
Thanh văn ngồi thiền, ta không ngồi
Bồ tát nói pháp, ta nói thật.
(Sống chết nhàn mà thôi)
Cần hiểu chữ Nhàn trong nhan đề bài kệ trên có nghĩa là “nhàn nhã ở trong tánh”. Sống chết ở trong tánh thì sống chết cũng nhàn mà thôi.
Thiền định trong pháp giới tánh thì đâu đâu cũng là thiền định, không cần giới hạn vào một tư thế, một không gian thời gian đặc biệt nào cả.
“Khi có người hỏi:
– Ngồi thiền tập định thì thế nào?
Sư nói:
– Vua hạ gọng xe đấu ếch nhái.
Lại hỏi:
– Chẳng ngồi thiền định thì thế nào?
Sư nói:
– Thuyền Phạm Lãi giang hồ tự thích.”
Ngồi thiền tập định là chuyện của cá nhân, của một phần tử so với cái định vô biên vốn có của pháp tánh.
Lục Tổ Huệ Năng nói: “Bản tánh tự tịnh tự định” (Phẩm Ngồi thiền). Kinh nói, “Các pháp vốn tự thanh tịnh”. Cho nên lìa cái định pháp tánh này, lìa cái “tâm của muôn pháp tức Phật tâm, Phật tâm cùng với tâm ta hợp”, để ngồi thiền tập định hầu “tạo ra một bầu trời trong bầu trời” (lời của Thiền sư Tịch Chiếu (1912 -2016), tổ thứ hai chùa Tây Tạng Bình Dương), thì thật là dại dột.
Đường đường là một ông vua, ngồi trên xe nghe ếch nhái kêu inh ỏi dưới ao bùn, bảo quân hầu hạ gọng xe để xuống chiến đấu với ếch nhái thì thật là buồn cười. Hành giả cứ lo đánh dẹp những niệm sanh khởi mà không biết chúng từ đâu sanh và tiêu tan chốn nào thì cũng như thế.
Việc này chẳng khác nào muốn đè sóng trên biển để cho hết sóng mà không biết rằng chính đại dương là sự giải quyết rốt ráo cho muôn ngàn làn sóng.
Vua còn có ý nghĩa là bản tánh, là tánh. Lục Tổ nói, “Tâm là đất, tánh là vua. Vua ở trên đất tâm” (Phẩm Nghi Vấn).
Tantra căn bản của Dzogchen Semde là Kunjed Gyalpo, có nghĩa là “Vua sáng tạo tất cả” (xem Nguồn tối thượng, Kunjed Gyalpo, Chogyal Namkhai Norbu dịch và giảng, 1995, Thiện Tri Thức, 2018).
Cho nên thiền định của Thiền là thấy ra, nhận biết được ông vua, và trở thành (hợp nhất) với vua bản tánh, bản tâm thì mọi lộn xộn trong tâm sẽ hết, như Thiền sư Lâm Tế nói trong Tứ Liệu Giản:
Lệnh vua đã hành khắp thiên hạ
Tướng quân ngoài ải dứt khói bụi.
và:
Vua lên ngai báu
Lão quê vui ca.
Ở một chỗ khác, Thượng sĩ cũng nói về sức mạnh và quyền lực của vị vua tâm này trong phần Tụng cổ:
Tướng quân ba trận chẳng thành công
Một lệnh vua truyền sáu nước yên
Ngàn giáo vừa buông ngưng trận chiến
Bèn nghe muôn mựa tiếng thu vang.
Tướng quân là các thức chẳng thể dẹp yên được giặc vọng niệm cứ khởi lên. Nhưng một khi có vua (trí) thì chỉ một lệnh vua ban là trận chiến dứt, hòa bình. Có thể xem sự phân biệt của Thức và Trí trong kinh Lăng Già.
Tóm lại, một khi đã trở về nguồn, về nền tảng từ đó khởi ra thế giới, người khác và chính chúng ta, thì nền tảng ấy vốn định, nên khắp cả các hiện tướng đều ở trong định. Khi về đến nền tảng vốn định (“Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim”) thì tất cả vũ trụ đều ở trong định. Nói một cách khác, tất cả pháp giới đều ở trong pháp giới tánh.
Khi đạt đến, nhận biết bản tánh của tâm thì chính bản tánh của tâm ấy thuần hóa và thăng hoa cho các thứ tâm khác, các trạng thái của tâm, các thức, các tưởng… đưa chúng về nguồn vua tánh của chúng. Bản tánh của tâm là vua của các tâm, do đó tâm trở thành một, không còn phân cách và xung đột lẫn nhau.
*****
Hỏi:
– Chẳng ngồi thiền định thì thế nào?
Sư nói:
– Thuyền Phạm Lãi giang hồ tự thích.
Ngồi thiền định là giới hạn cái định của pháp giới, tức là pháp giới tánh, vào trong khuôn khổ của một thân tâm, trong một không gian và thời gian. Thiền định khi ấy là một trạng thái của bản tánh của tâm, trong khi bản tánh của tâm thì bao gồm mọi thứ thiền định và là bản tánh của mọi loại thiền định.
Thiền nhắm vào Tánh thay vì tướng là như vậy. Nhắm vào pháp giới tánh thay vì tướng trạng của một phần tử nào đó.
Không nheo mắt làm quái thì làm sao thấy ra mặt trăng thứ hai? Không nheo mắt làm quái thì không có tướng nào hiện ra cả. Tất cả chỉ là tánh.
Cho nên khi thấy và sống trong tánh thì tất cả vũ trụ, tất cả pháp giới đều là tánh. Đây là cái định của toàn bộ vũ trụ, đây là Chân Như của toàn bộ vũ trụ. Ông có bài thơ số 11: “Vạn sự quy Như”, muôn sự về Như.
Khi ấy vũ trụ là khuôn mặt xưa nay của chính mình, là Hóa thân Phật của mình. Vũ trụ không còn là cái khác (l’autre, the other), cái xa lạ (l’étranger, the stranger), mà là quê nhà của mình, trong đó tha hồ rong chơi, “giang hồ tự thích”, chữ trong kinh gọi là “du hí tam muội”.
Như Thiền sư Thường Chiếu (?- 1203), đời thứ 12, dòng Vô Ngôn Thông, nói:
Đạo vốn không nhan sắc
Mỗi ngày lại mới khoe
Ngoài đại thiên sa cõi
Chỗ nào chẳng phải nhà.
*****
Nhưng cụ thể, Thượng sĩ có ngồi thiền không? Có ngồi thiền.
Trong nhà ngồi thẳng, lặng không lời
Nhàn ngắm Côn Luân vệt khói trôi
Ngay khi thấy mệt, tâm tự bặt
Chẳng cần nhiếp niệm chẳng cần thiền.
(Chợt hứng)
Ngồi thẳng (đoan tọa) lặng không lời là ngồi thiền. Nhưng cái ngồi thiền của ông dựa trên nền tảng là tánh, chứ không dựa trên nhiếp niệm hay trên hơi thở, cảm thọ… Đây là thiền dựa trên bản nhà của mình, trong đó tha hồ rong chơi, “giang hồ tự thích”, chữ trong kinh gọi là “du hí tam muội” tánh bất sanh bất diệt chứ không dựa trên sự sanh khởi hay dứt bặt của niệm.
Cũng ngồi thiền, nhưng ngồi trên bản tánh bất sanh, bất diệt, còn nếu lo liệu, thu xếp với thức sanh diệt, thì như kinh Lăng Nghiêm nói, “như nấu cát mà muốn thành cơm”.
Một thiền giả vẫn sử dụng ngồi thiền, nhưng người ấy nhắm đến tánh thiền thay vì tướng thiền.