ÂM NHẠC – CÔNG CỤ CHI PHỐI TÂM TRẠNG DIỆU KỲ
Trích: La Bàn Hạnh Phúc; Dịch Giả: Uông Xuân Vy, Nguyễn Đan Linh, Bùi H.Thanh Dung; NXB: Phụ Nữ in năm 2014
Âm thanh và nhịp điệu của âm nhạc nổi tiếng với tác động của nó lên tâm hồn và tâm lý con người đã mấy ngàn năm nay, có lẽ trước cả thời điểm chiếc xương thú đầu tiên được dùng để chế tù và, hay nhánh cây đầu tiên được đẽo thành ống sáo. Chuyên gia âm nhạc cổ xưa kiêm nhà nghiên cứu, Legor Reznikoff, tin rằng hình thức nghệ thuật hang động thuộc thời hậu đồ đá cũ (khoảng 10.000 đến 40.000 năm trước) có liên quan đến hoạt động ca hát hoặc âm nhạc.
Một nghiên cứu do Reznikoff thực hiện, được Viện Vật lý Hoa kỳ xuất bản năm 2008, xem xét những hang động thuộc thời hậu đồ đá cũ, nhằm thử nghiệm nhiều loại âm thanh và âm vực. Mục đích của nghiên cứu này là xác định xem ở những vị trí nào, âm thanh, giai điệu, độ khuếch âm, và phối khí sẽ cho ra kết quả tốt nhất. Đáng ngạc nhiên là hầu hết 90% các bức họa khắc trên đá đều xuất hiện gần những khu vực được tính toán là lý tưởng về mặt âm học. Theo Reznikoff, nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy người xưa kết hợp nghệ thuật và âm nhạc như một dạng nghi thức.
Có một điều chắc chắn là : âm nhạc thể hiện sức ảnh hưởng mạnh mẽ của thiên nhiên, từ tiếng trống mô phỏng nhịp đập của sự sống, đến tiếng sáo xa xưa đầy thu hút như nhịp điệu hạnh phúc và đầy mê hoặc của con suối róc rách. Bản thân các loại nhạc cụ là phương tiện mô phỏng rõ nét nhất niềm hạnh phúc, sự bình an, dòng sự kiện trong cuộc sống, những cuộc hội hè, và cả chiến tranh. Từ rất lâu, trống đã được dùng để gọi hồn trong các tang lễ, cũng như để thúc quân ra mặt trận ; chuông thường được dùng vào mục đích tôn giáo hoặc đời sống tâm linh, thông qua nhiệm vụ báo hiệu đã đến giờ cầu nguyện hoặc xua đuổi ma quỷ ; theo truyền thống, đàn harp tượng trưng cho âm nhạc thần thánh, cũng như các năng lực siêu nhiên và đấng bảo hộ.
Có lẽ, điều quan trọng nhất là phát hiện mới cho thấy âm nhạc không đơn thuần là rung động cơ học xuyên qua hòm nhĩ chắn phía trước lỗ ống tai giữa, tiếp theo được dẫn truyền theo dây thần kinh thính giác để đi vào khu thính giác của não xám. Những rung động này thật ra được chuyển hóa thành các tín hiệu điện tử, truyền đến tận trung khu xử lý cảm xúc của não bộ, nó còn có thể khiến hệ nội tiết vất vả với đủ loại kích thích tố (hormones) cũng như các hợp chất dẫn truyền xung động thần kinh (neurotransmitters). Chính sự trồi sụt của kích thích tố này gây biến đổi nhịp tim nhanh chóng, cả nhịp thở, phản ứng của hệ miễn dịch, và cả tâm trạng. Trong quyển The World in Six Songs (xuất bản năm 2008, trang 101) nhà soạn nhạc kiêm khoa học gia Daniel Levitin đã viết : « Âm nhạc giúp con người tỉnh táo hơn dựa trên quá trình phóng thích norepinephrine và epinephrine…đồng thời cũng cố hệ miễn dịch nhờ việc tiết ra các kích thích tố adrenocorticotropic hormone (ACTH), và B-endorphin (B-EP). » Chúng là những hormone và neurotransmitter có tác dụng nâng cao tinh thần, tăng cường cảm giác hưng phấn, tăng mức độ linh hoạt của trí não, điều tiết nhịp ngủ sinh học của cơ thể, và đẩy mạnh hệ miễn dịch.
Các nghiên cứu cho thấy thời gian hồi phục sau phẫu thuật có thể được rút ngắn nhờ những giai điệu êm dịu phát ra trong quá trình mổ và cả sau đó. Nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng (do nhóm Nilsson thực hiện năm 2001) thực hiện trên 90 bệnh nhân nữ sau phẫu thuật cắt bỏ tử cung, nhằm xem xét tác động của âm nhạc lên cơn đau, tốc độ hồi phục và tình trạng mệt mỏi. Những bệnh nhân được tiếp xúc với âm nhạc trong quá trình phẫu thuật và giai đoạn hậu phẫu dùng ít thuốc giảm đau hơn, có thể di chuyển trở lại trong thời gian ngắn hơn, ít mệt mỏi hơn so với nhóm đối chứng. Nói cách khác, thể loại âm nhạc phù hợp có khả năng ảnh hưởng đến chúng ta ở mức độ tế bào trong cơ thể.
Thay âm nhạc, đổi tâm trạng
Dĩ nhiên không phải tất cả thể loại âm nhạc đều giúp ta hồi phục. Âm nhạc có thể mang đến bất kỳ cung bậc cảm xúc nào, từ hạnh phúc, yêu thương, tự hào, đến ăn năn, giận dữ và buồn đau. Ngay cả lời nhạc và thể loại nhạc cũng khẳng định sức mạnh chuyển hóa cảm xúc của âm nhạc. Chẳng hạn, có hẳng một thể loại nhạc được đặt tên theo tâm trạng – cụ thể là mood music (tạm dịch là âm nhạc xúc cảm) ; nhóm nhạc Moody Blues từng là biểu tượng của làng nhạc rock những năm 60 ; bài hát nổi tiếng thập niên 30 của thế kỷ trước « I’m in the Mood for Love » (Tôi Đang Trong Tâm Trạng Yêu) đã được biết bao thế hệ ca sĩ thể hiện, từ Nat King Cole, Frank Sinatra đến Barbra Streisand, Rod Steward cùng nhiều ca sĩ khác. Trong âm nhạc, tâm trạng quyết định tất cả.
Còn nhớ Mindy, một nhân viên công tác xã hội 27 tuổi, tìm đến tôi trong trạng thái kiệt sức vì công việc quá tải và căng thẳng lo âu. Để tìm hiểu xem điều gì mang lại cho cô niềm vui, tôi hỏi thăm về những sở thích và các hoạt động giải trí mà Mindy yêu thích. Đây cũng là câu hỏi tôi thường dành cho khách hàng trong lần gặp đầu tiên để lấy thông tin. Cô trả lời ngay không do dự : « Âm nhạc. Tôi yêu nhạc vì nó làm tôi dễ chịu. » Tôi còn biết rằng công việc của Mindy buộc cô phải di chuyển nhiều. Mỗi ngày cô mất gần hai giờ, hoặc hơn, ngồi sau vô lăng. Khi được hỏi liệu cô có thường nghe nhạc trong lúc lái xe, Mindy chau mày đáp : « Radio và đầu máy CD trong xe bị hỏng. Tôi và chồng đang gặp khó khăn về tài chính nên tôi không có điều kiện mua cái mới. Có nhiều thứ cấp bách khác cần được ưu tiên. »
Tôi đề nghị Mindy dành thời gian lắng nghe những ca khúc sôi nổi trên đường từ công ty về nhà, đồng thời xem xét đưa việc sửa đầu đĩa xe hơi vào danh sách những việc ưu tiên. Hai tuần sau, Mindy trở lại văn phòng tôi với nụ cười rạng rỡ. « Không thể tin nổi, nhưng công hiệu thật ! » cô la toáng lên khi ngồi xuống chiếc ghế trường kỷ in hoa nhạt trong văn phòng tôi. Ông xã của Mindy đã đồng ý điều chỉnh ngân sách để sửa máy nghe nhạc trên xe cho vợ. Sau buổi gặp gỡ với khách hàng, dù mệt nhọc bao nhiêu, Mindy vẫn cảm thấy hạnh phúc trở lại khi ngồi nghe và hát theo những bài hát sôi động đúng ý cô. Âm nhạc đã mang Mindy trở lại hành trình hạnh phúc.
Một khách hàng khác của tôi là Karen, 35 tuổi, bị trầm cảm nghiêm trọng sau mối quan hệ vừa tan vỡ. Chưa hết, người bạn chung nhà của cô còn quen một anh chàng. Chẳng phải Karen ganh ghét gì hạnh phúc của bạn, mà bởi việc nhìn thấy cô bạn cặp kè cùng người yêu mới ngay tại căn hộ gợi cô nhớ đến khoảng trống trong cuộc đời mình. Khi được hỏi liệu cô có cần đến âm nhạc những lúc như thế này không, Karen đáp : « Có chứ, tôi bỏ về phòng nghe nhạc. Đó là cách duy nhất tôi có thể tìm lối thoát mà không rời khỏi nhà. Nhưng cũng chẳng ích gì, nó khiến tôi thấy buồn và u sầu hơn nữa. » Tôi tiếp tục hỏi : « Chị nghe thể loại nhạc nào ? Vui hay buồn ? » Karen khựng lại một lát, hai lông mày cô hơi nhướng lên khi suy nghĩ về câu hỏi của tôi. « Tình ca, » cô đáp, « anh hỏi tôi mới để ý, tôi nghe toàn những bản tình ca buồn. » Sau khi nghe câu trả lời này, tôi gợi ý Karen ghi lại thể loại nhạc cô thường nghe cũng như tác dụng cải thiện hay gây trầm trọng hóa trạng thái tinh thần. Rõ ràng, Karen cần những giai điệu rộn rã để giải tỏa nỗi buồn. Chẳng mấy chốc, Karen đã ý thức vận dụng chiếc la bàn hạnh phúc của mình để xác định được thể loại nhạc sôi động có tác dụng nâng đỡ tinh thần, chứ không phải khiến cô thấy tồi tệ hơn.
