CHỨNG KIẾN VÀ QUAN SÁT KHÔNG DÍNH MẮC

DAVID R. HAWKINS

Trích: Bản Ngã - Thấu Hiểu Và Tan Biến; Dịch: My Nguyễn; NXB Lao Động

Một hình thái hoặc cách thức suy ngẫm dẫn một người đến tự nhận thức chính là chứng kiến và quan sát. Trong khi bản ngã tập trung vào việc trải nghiệm các xúc cảm và quá trình của sự trải nghiệm, chứng kiến và quan sát chuyển dịch sự tập trung vào một trường nhận thức phi cá nhân, giúp người đó vượt thoát khỏi các sự thu hút và ác cảm của bản ngã thông qua sự quan sát không liên quan.

Sau khi một người đã quan sát trường tâm trí tổng quan, có một điều rõ ràng là chính những gì dòng suy nghĩ chứa đựng có vẻ không mấy bổ ích. Họ phải lùi lại và đi sâu hơn vào tầng tâm thức tiếp theo và hỏi nó xem nó đang đứng xem, quan sát, nhận thức và ghi lại dòng chảy của suy nghĩ là gì. Cùng một cách như đôi mắt không bị ảnh hưởng bởi những gì đang được quan sát hay đôi tai không bị ảnh hưởng bởi những gì đang được nghe thấy, quá trình chứng kiến đang diễn ra không bị ảnh hưởng bởi những gì đang được chứng kiến.

Cũng như không có thực thể nào đang suy nghĩ, cũng không có nhân chúng nào đằng sau sự chứng kiến. Chứng kiến là một khía cạnh phi cá nhân bẩm sinh và là đặc tính của chính bản thân ý thức. Một người có thể rút khỏi sự vướng bận với nội dung của những suy nghĩ và chọn chấp nhận quan điểm của sự quan sát và chứng kiến.

Chứng kiến hay quan sát không tập trung vào ý tưởng hay hình ảnh nào, mà cho phép chúng được tuôn chảy mà không là một phần của chúng. Người đó sẽ nhận ra rằng những hình ảnh xuất hiện trong tâm trí diễn ra một cách tự phát và dòng suy nghĩ là phi cá nhân. Những suy nghĩ không phải “của tôi” cũng như không có “tôi” nào liên quan tới những điều này.

Khi đôi mắt vật lý nhìn các hình ảnh, nó không đòi hỏi là tác giả của những hình ảnh đó, hay đôi tai cũng không đòi quyền tác giả của các âm thanh đó nghe được. Do vậy, bằng kinh nghiệm từ chứng kiến và quan sát thuần túy, có một điều rõ ràng rằng các suy nghĩ cũng không được sáng tác bởi một nhân vật riêng biệt gọi là “Tôi”. Chúng chỉ là kết quả của những sự kết hợp và hoán vị của những lập trình xuất phát từ cảm xúc và quan niệm, đang tham chiến trên ván cờ. Nhận thức được rằng tâm trí không phải là một với “Tôi” phá vỡ sự đồng hóa của bản thể với tâm trí.

Không kháng cự không có nghĩa là phớt lờ hoặc chối bỏ. Thay vào đó, nó có nghĩa là chứng kiến, quan sát và nhận thức – thứ mà trong cách thức của sự trải nghiệm, đưa một người từ trạng thái là một diễn viên tưởng tượng trong bộ phim cuộc đời trở thành một nhân chứng hoặc người quan sát, do đó không vướng mắc về mặt cảm xúc nhưng lại có khả năng tham gia vào quá trình. Thái độ này loại bỏ sự cám dỗ phải đầu tư vào vị thế hay kết quả. Khi ý chí cá nhân quy hàng và Ý Chí Thiên Tính chiếm chỗ, Sự Sáng tạo tiếp diễn không hồi kết và mang tính tiến hóa và phục vụ cho sự thức tỉnh nhận thức.

Ở đây không có “ai” đang chứng kiến, trải nghiệm hay quan sát; thực chất nó là một phẩm chất bên trong đang hoạt động một cách dễ dàng và không tiêu hao năng lượng của ý định thay đổi tiến trình. Toàn bộ cuộc sống trở thành một điều “cho trước” – và nhận thức về bản chất của tính chủ quan loại trừ cảm nhận về một “cái Tôi” hoặc “tôi” cá nhân thành sự hiện diện bên trong của Bản Thể nằm ngoài sự suy tưởng của những gì tâm trí chứa đựng và thay vào đó, chứa đựng tất cả những điều này. Ý thức này chính là “Ánh Sáng” mà qua đó chúng ta có thể “nhìn thấy” bằng cảm xúc hoặc tâm trí. Thông qua ý thức này, sự tập trung lúc này di chuyển vào bên trong tới nguồn gốc của Ánh Sáng, thay vì tới những chi tiết của những gì đang được chiếu sáng. Chỉ bằng duy nhất Ánh Sáng này mà một người có thể ý thức được về nội dung của tâm trí, nếu không thì bằng cách nào khác một người có thể biết được rằng họ đang trải nghiệm hoặc suy nghĩ về điều gì?

Ý niệm tâm linh phục vụ, củng cố và tập trung vào chứng kiến và quan sát thay vì vào “hoạt động” hoặc những điều cụ thể chi tiết. Tiến trình xử lý tâm linh giống như định vị mình trong ngọn gió hoặc trong một dòng nước.

Cách thức suy ngẫm tạo điều kiện cho sự chuyển đổi của cảm nhận về danh tính từ tâm trí hay cơ thể đến người quan sát hay nhân chứng, thứ then chốt và gần gũi với Sự Thật về Bản Thể và Thực Tại. Bước tiếp theo là rút lại cảm nhận về “cái Tôi” khỏi người quan sát hay nhân chứng, nơi nó di chuyển tới địa bàn của ý thức – một phẩm chất hơn là một nhân vật. Một lợi ích quan trọng của việc là một người quan sát hay chứng kiến thay vì là một người tham dự đó là nhân chứng không lên tiếng, chỉ nhìn mà không bình luận. Có thể nói rằng nhân chứng hay người quan sát gắn kết với khu rừng hơn là những cái cây trong đó.

Một quyết định hoặc lựa chọn hữu ích là quyết định dừng lại tất cả những cuộc trò chuyện trong tâm trí về mọi thứ và kiềm chế để không xen vào những nhận xét, ý kiến, sở thích và câu nói mang đậm giá trị của bạn. Quan sát mà không đánh giá, đặt giá trị vào, biên tập, bình luận hay có những sự ưu ái hơn về những gì được quan sát là một sự kỷ luật.

Nhân chứng hay người quan sát là một thái độ suy ngẫm đĩnh đạng cân bằng. Các hiện tượng xảy đến rồi rời đi. Một người phải luôn từ bỏ khao khát trải nghiệm hiện tượng hay khao khát “bòn rút” trải nghiệm của chính hoạt động trải nghiệm.

Ý thức nằm ở ngay bên dưới hoặc phía trước chức năng của người quan sát. Nó tĩnh lặng và bất động, giống như bầu trời hoặc không gian trong vũ trụ. Bằng cách từ bỏ sự trông chờ, bám víu, tìm kiếm niềm vui, hay trốn tránh những điều không như ý, sự tập trung của bạn giữ vững trạng thái định thần cân bằng trên sự sắc bén của khoảnh khắc thoáng qua. Ở vị trí cân bằng này, những hình ảnh và hoạt động tâm trí dần thu lại, hé lộ ra phạm vi ẩn sâu bên dưới được kích hoạt bởi khao khát và ý niệm của chính bản thân suy nghĩ.

Khi sự tập trung và hứng thú chuyển từ nội dung sang người quan sát, ta nhận thấy rằng sự quan sát/ chứng kiến là sự tái hiện của ý thức với tư cách là nhận thức – và là một phẩm chất phi cá nhân, phi tuyến tính mang tính thiết yếu, nội tại và tự chủ.

Sự chú ý là sự chọn lọc dựa trên những giá trị giả định trước, thứ chỉ mang tính nhất thời. Bằng cách quan sát những gì tâm trí lựa chọn để chú tâm vào, các xu hướng của nó trở nên rõ ràng và tiết lộ căn nguyên của sự thu hút hay ác cảm. Bằng cách từ bỏ khuynh hướng phóng chiếu ham muốn hoặc sự ghét bỏ, mọi thứ đều mang giá trị bình đẳng khi không có những điều đặc biệt phóng chiếu lên chúng.

Sự nhất điểm của tâm trí đồng nghĩa với việc tập trung vào đỉnh ngọn sóng của chứng kiến và trải nghiệm, đi kèm sự sẵn sàng loại bỏ mọi sự mất mát hoặc có được tưởng tượng. Đó là kỹ năng đầu tiên cần phải có.

Sự tiến hóa tâm linh là hệ quả tự động của việc quan sát tâm trí – và những xu hướng của nó như một ngôi thứ ba – từ góc nhìn toàn thể của mô hình bối cảnh thay vì nội dung. Thay vì cố gắng ép buộc sự thay đổi diễn ra, điều cần thiết chỉ đơn giản là cho phép Đấng Thần Thánh làm điều đó qua sự quy hàng sâu sắc mọi sự kiểm soát, phản kháng, và ảo tưởng về mất mát hoặc được hơn. Không cần thiết phải tấn công hay phá hủy các ảo tưởng mà chỉ cần cho phép chúng dần tan rã.

Quan sát tâm trí từ một vị trí không dính mắc có thể dạy ta nhiều điều và lại không hề căng thẳng và điều này có thể thực hiện bằng một sự thư thái.

Bằng cách thức quan sát không dính mắc, cuộc sống trải rộng và tiết lộ nó chính là hệ quả của sự xuất hiện tự phát của thực tại như là biểu hiện của những tiềm năng khi các điều kiện đều thuận lợi.

Bình luận


Bài viết khác của tác giả

  1. SỰ HÌNH THÀNH TÍNH CÁCH VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍNH CÁCH TÍCH CỰC THEO ĐỊNH CHUẨN CỦA Bs.Ts. DAVID R. HAWKINS
  2. NIỀM HÂN HOAN VÀ SỰ XUẤT THẦN MANG TÍNH SIÊU VƯỢT
  3. 10 THÔNG ĐIỆP TÂM LINH CỦA TIẾN SĨ DAVID R. HAWKINS

Bài viết mới

  1. SỬ DỤNG HIỆU QUẢ SIÊU NĂNG LỰC QUYỀN LỰC & TÁC ĐỘNG
  2. CÂU TRẢ LỜI ĐÃ CÓ SẮN TRONG CÂU HỎI – PHẬT GIÁO TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
  3. THẦY VÀ ĐỆ TỬ