ĐẠI BI TRONG DUY THỨC

Nguồn: thuvienhoasen.org

05/08/2025
16 lượt xem
Bài kệ mở đầu Kinh Lăng Già do Cầu Na Bạt Đà La dịch, nói rõ Trí Huệ thấy như huyễn như mộng và Đại Bi luôn luôn đi cùng với nhau:
Thế gian lìa sanh diệt
Giống như hoa trong không
Trí chẳng đắc có – không
Mà hưng tâm đại bi.
Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa khỏi tâm thức
Trí chẳng đắc có – không
Mà hưng tâm đại bi.
Xa lìa khỏi đoạn thường
Thế gian hằng như mộng
Trí chẳng đắc có – không
Mà hưng tâm đại bi.
Biết nhân pháp vô ngã
Phiền não và sở tri
Thường thanh tịnh vô tướng
Mà hưng tâm đại bi.
Tất cả không niết bàn
Không có niết bàn (của) Phật
Không có Phật niết bàn
Xa lìa giác, chỗ giác.
Hoặc có, hoặc không có
Là tất cả đều lìa
Quán Mâu Ni tịch tĩnh
Đó là xa lìa sanh
Sanh ấy là chẳng nắm.
Đời này đời sau tịnh.
Trí huệ là thấy cuộc đời như hoa trong hư không, tất cả sự vật như huyễn như mộng, biết người và pháp là vô ngã… nhưng “mà hưng tâm đại bi”.
Tại sao thấy như huyễn, như mộng, thấy người và pháp vô ngã mà lại sanh tâm đại bi? Vì thấy chúng sanh sống trong cảnh huyễn mộng, không thật (trong Biến kế sở chấp) mà khóc, cười, khổ vui, tạo ra đủ thứ hành động xấu tốt nên tự nhiên thấy thương xót, nên tự nhiên lòng bi dâng tràn.
Có thể nào thương xót cho những người được thấy trong mộng? Tánh Không như huyễn như mộng và đại bi, hai thực thể tưởng chừng như hoàn toàn mâu thuẫn với nhau lại là hai yếu tố quan trọng nhất phối hợp thành con đường Bồ tát, như hai chân để đi trên đường.
1. – Lòng bi có ngay từ đầu con đường Bồ tát
Muốn vào Đại thừa phải phát Bồ đề tâm. Bồ đề tâm là nguyện và hạnh đạt đến giác ngộ để giúp cho chúng sanh giải thoát, hết khổ. Vế đầu là trí huệ và vế sau là đại bi. Trí huệ và đại bi được phát nguyện ngay từ đầu và càng ngày càng lớn mạnh; trí huệ đến đâu Bồ tát giúp đỡ chúng sanh đến đó.
Đại bi là động lực để trí huệ phát sáng mạnh mẽ, vì Bồ tát không chỉ tu tập trí huệ cho mình mà còn vì sự tăm tối khổ đau của rất nhiều người khác.
2. – Lòng bi bắt đầu cùng với trí huệ
Trí huệ nhờ chỉ quán mà nhận ra thế giới mình và mọi người đang sống thì không thật, chỉ do danh tướng (Biến kế chấp) và các thức duyên sanh lẫn nhau (Y tha khởi) mà thành nên như huyễn như mộng.
Như huyễn mộng, sóng nắng
Như thành Càn thát bà
Vô số loại hình tướng
Danh tự và câu cú
Do chấp trước sanh ra
Thành ra tánh Biến chấp.
Căn, cảnh, ý hòa hợp
Huân tập thành hạt giống
Không khác biệt với tâm
Các thức từ đây sanh
Tạo thêm vốn cho nhân
Gọi là Y tha khởi
Trong, chứng trí chân thật
Ngoài, pháp trụ hiện ra
Tức là gọi Viên thành.
Cảnh giới các bậc thánh
Phật và các Phật tử
Chứng pháp này là thánh
Nếu người chứng pháp ấy
Tức thấy được lẽ chân.
(Kinh Đại thừa Mật Nghiêm).
Vậy mà từ bao đời nay người ta không biết, cứ bám nắm, đuổi theo sự hư vọng này để rồi khổ đau, cho đến sanh lão bệnh tử.
Hiểu được, thấy được một phần Biến kế sở chấp thì một phần tâm bi hưng khởi.
3. – Bổn nguyện đại bi của Bồ tát
Con đường Bồ tát là khai mở trí huệ tánh Không, và đại bi là động lực cũng là đích đến của con đường. Đại bi có từ đầu con đường, cho đến cuối cùng, gọi là “bổn nguyện đại bi”. Chính bổn nguyện đại bi này làm thành vị Bồ tát và con đường của ngài.
Đại Huệ! Các đại Bồ tát thấy các lạc của tam muội tịch diệt (Niết bàn) liền nhớ nghĩ bổn nguyện đại bi, tu hành đầy đủ mười câu vô tận, thế nên không liền nhập Niết bàn, vì nhập Niết bàn thì không sanh quả Phật. Lìa năng thủ, sở thủ, rõ thông duy tâm, không phân biệt tất cả pháp, không sa vào tâm, ý, ý thức, vào chấp trước tánh tướng ngoại pháp, nhưng chẳng phải không khởi chánh nhân Phật pháp (Bồ đề tâm), hành theo trí huệ mà khởi như vậy, đắc địa tự chứng của Như Lai”. (Kinh Nhập Lăng Già)
Đại bi phát nguyện từ ban đầu (bổn nguyện) duy trì, giữ gìn con đường Bồ tát cho đến lúc thành Phật mà không “liền nhập Niết bàn, vì nhập Niết bàn thì không sanh quả Phật”.
Trí huệ ‘rõ thông duy tâm” và đại bi bổn nguyện lập thành con đường Bồ tát với Bồ tát hạnh. Công đức của Bồ tát là do đại bi:
Bồ tát khéo quán sát
Nhân – pháp hai vô ngã
Quán rồi liền xa lìa
Không trụ nơi thật tế.
Nếu trụ vào Niết bàn
Thì bỏ tâm đại bi
Công đức không thành tựu
Chẳng đắc thành Chánh giác.
(Đại thừa Mật Nghiêm, Địa Bà Ha La dịch)
Kinh Thâm mật Giải thoát (Bồ Đề Lưu Chi dịch tiếng Hán) nói:
“Bồ tát Quán Thế Tự tại bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các ba la mật này những gì là nhân? Những gì là quả? Những gì là lực?
Đức Phật nói
– Đại bi là nhân, ham muốn nắm giữ chúng sanh là quả; có khả năng đầy đủ Bồ đề là lực”.
Con đường Bồ tát có đại bi là nhân. Nhân ấy, bằng Bồ tát hạnh, lớn dần, bằng Bồ tát hạnh, trùm khắp để ham muốn nắm giữ, giữ gìn tất cả chúng sanh, đó là quả. Quả là đại bi trùm khắp tất cả chúng sanh.
Đại bi này đi cùng trí huệ hướng đến Bồ đề (Giác ngộ), cả hai càng ngày càng đầy đủ, mạnh mẽ, đó là lực. Năng lực của Bồ tát là trí huệ và đại bi, khiến cho Bồ tát có thể làm việc hiệu quả trong đời. Cụ thể, trong Duy thức, năng lực là do chứng ngộ được mọi sự như huyễn, đạt Như huyễn tam muội, mà Kinh Hoa Nghiêm gọi là “huyễn lực”.
Phật đã chứng ngộ rốt ráo trí huệ như huyễn như mộng và đại bi bao trùm chúng sanh như huyễn để có thể biến hiện khắp các cõi.
Khi nói trí huệ và đại bi hợp nhất nơi bậc Giác ngộ thì có nghĩa là trí huệ và đại bi tỏa khắp và thấm nhuần khắp A lại da nền tảng. Và A lại da nền tảng là cái tạo ra sanh tử và niết bàn, nên khi ấy trí huệ và đại bi tỏa khắp, thấm nhuần khắp sanh tử và Niết bàn.
Như Lai dùng bi, nguyện
Tùy duyên hiện các cõi
Như vầng trăng trong sáng
Hiện khắp cả mọi nơi.
Tùy căn tánh chúng sanh
Thích nghi mà thuyết pháp
Nếu Niết bàn là diệt
Phật có công đức gì?
(Kinh Đại thừa Mật Nghiêm)
Sự biến hiện khắp các cõi là do năng lực chứng đắc “ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức”, nghĩa là ba cõi và muôn pháp đều như huyễn như mộng.
Thường trụ cõi Mật Nghiêm
Đó là nơi thanh tịnh
Hiện rõ tướng Như Lai
Ví như trăng tròn sáng
Ảnh chiếu các dòng nước.
Phật dùng tất cả thân
Tùy nghi mà ứng hóa
Cảnh tịnh, trí Như Lai
Người quán hạnh điều thấy.
(Kinh Đại thừa Mật Nghiêm)
Người quán hạnh Duy thức thì dần dần thấy hóa thân Phật “ví như trăng tròn sáng, ảnh chiếu trong tất cả các dòng nước”. Đó là ứng hóa thân của Phật: “Phật dùng tất cả thân, tùy nghi mà ứng hóa”. Đó là “cảnh tịnh, trí Như Lai”.
Ở đây, một lần nữa, qua các bài kệ trên, chúng ta có được định nghĩa Ba Thân Phật.
Pháp thân là tánh Không: “như hư không vượt khỏi có không, thường thanh tịnh vô tướng… (bài kệ đầu bài).
Báo thân là ánh sáng: “trăng trong sáng, trăng tròn sáng”.
Hóa thân là sự hóa hiện của Trí – Bi: “ảnh của mặt trăng tròn sáng, hiện khắp cả mọi nơi, ảnh chiếu trong tất cả các dòng nước”.
“Người quán hạnh đều thấy” là thiền định thiền quán Duy thức, là “kết nối, tương ưng, hợp nhất” (nghĩa của chữ Du già trong Du già hành tông – Yogacàrà) để đến lúc Ba Thân ấy hiển lộ, ở Thông đạt vị hay Kiến đạo vị. Đây gọi là thấy Duy thức tánh hay Chân Như ở cấp độ đầu tiên của Mười Địa.
Tiếp tục thực hành quán hạnh sau khi đã “thấy” là Tu tập vị, tiếp xúc, làm quen, cho đến lúc an trụ hẳn trong Ba Thân, mà Kinh gọi là “thường trụ cõi Mật Nghiêm”.