PAULO COELHO
Trích: Nhà Giả Kim; Người dịch: Lê Chu Cầu; Bản quyền bản tiếng Việt: Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2013; NXB. Văn Học
Chàng trai lên phòng, thu vén tất cả những gì mình có. Được ba túi đầy. Vừa định đi cậu chợt thấy ở góc phòng chiếc bị đeo vai cũ thời chăn cừu của mình. Nó sờn đến nỗi không nhận ra. Trong bị còn quyển sách dày và chiếc áo khoác cũ. Cậu lấy áo ra, định đem cho một đứa trẻ sống lang thang nào đó thì hai viên đã Urim và Thummim rơi xuống.
Lúc ấy cậu mới sực nhớ đến vị vua già và sửng sốt vì không ngờ bấy lâu nay mình không hề nghĩ đến ông. Suốt một năm qua cậu chỉ bận lo kiếm tiền để khi trở về Tây Ban Nha khỏi mang tiếng là kẻ chẳng làm nên trò trống gì.
“Đừng bao giờ từ bỏ ước mơ của mình”, ông vua già đã bảo cậu thế, và “hãy lần theo dấu hiệu”.
Cậu nhặt hai viên đá lên và có lại cảm giác lạ lùng rằng ông đang ở gần bên mình. Một năm dài cậu đã làm việc cật lực và giờ đây dấu hiệu chỉ rằng đã đến giờ lên đường.
“Bây giờ mình sẽ lại sống hệt như xưa”, cậu nghĩ thầm. “Dù lũ cừu đã không dạy được cho mình tiếng A-rap”.
Tuy nhiên lũ cừu đã dạy cậu một điều còn quan trọng hơn nữa: rằng trên thế giới có một ngôn ngữ ai cũng hiểu cả và chính cậu đã dùng suốt bấy lâu nay để làm cho cửa hàng phát đạt. Đó là ngôn ngữ của sự phấn khởi, của nỗ lực, hăng say dốc sức thực hiện điều mình vững tin và mong mỏi đạt được. Tanger không còn là một thành phố xa lạ đối với cậu nữa, và cậu cảm thấy có thể chinh phục cả thế giới cũng bằng phương cách cậu đã chinh phục thành phố này.
“Khi cậu quyết tâm muốn điều gì thì cả vũ trụ sẽ tác động để giúp cậu đạt mục đích”, ông vua già đã nói thế.
Nhưng nhà vua đã không hề đề cập đến bọn cướp đường, đến sa mạc mênh mông vô tận, đến những kẻ biết mình có ước mơ mà không muốn thực hiện nó. Nhà vua cũng không hề bảo rằng Kim Tự Tháp chỉ là những đống gạch cũ mà ai cũng có thể tự dựng được trong vườn mình. Và ông cũng quên luôn không nói rằng khi người ta có đủ tiền để mua một đàn cừu lớn hơn thì cứ nên mua.
Cậu xách bị cùng những túi kia, xuống thang. Ông chủ tiệm đang tiếp một cặp khách ngoại quốc, trong khi hai khách hàng khác tha thẩn trong cửa hàng và uống trà trong ly pha lê. Vào cái giờ sớm này thì nhiều việc làm đây. Từ chỗ đang đứng lần đầu tiên cậu để ý thấy rằng tóc chủ tiệm gợi cậu nhớ đến tóc ông vua già. Rồi cậu nhớ lại nụ cười của người bán bánh kẹo vào các ngày đầu tiên cậu không biết đi về đâu, không biết lấy gì ăn; nụ cười ấy cũng giống như nụ cười của nhà vua nữa.
“Khác nào ông đã đến đây và để lại tung tích vậy”, cậu ngầm nghĩ. “Như thể ai một lần trong đời cũng có dịp gặp gỡ nhà vua. Ông đã từng nói rằng sẽ luôn xuất hiện với kẻ nào quyết chỉ đi theo con đường mình từ chọn mà”.
Cậu đi, không từ giã chủ tiệm. Vì cậu không muốn khóc, không muốn ai nhìn thấy nỗi đau đớn của cậu. Nhưng chắc chắn cậu sẽ nhớ mãi thời gian ở đây và những gì đã học được. Giờ đây cậu thêm tự tin và cảm thấy nếu cần mình có thể chinh phục cả thế giới.
“Tuy nhiên mình vẫn trở về chốn cũ thân quen và sẽ lại chăn cừu”. Bỗng dưng cậu chợt thấy không thích như thế nữa. Cậu đã làm việc suốt một năm ròng để thực hiện giấc mơ này thế mà bây giờ ước mơ ấy cứ mỗi lúc một mờ nhạt dần. Có thể đó không thật sự là ước mơ của cậu.
“Biết đâu như ông chủ tiệm pha lê mà lại hóa hay: sẽ không bao giờ đi Mekka cả nhưng cả đời lại mơ đến nó. Cậu băn khoăn cầm hai viên Urim và Thummim trong tay; chúng truyền cho cầu sức mạnh ý chí từ vị vua già. Tình cờ – hoặc cũng có thể do dấu hiệu – cậu vào đúng cái quán nước ngày xưa. Không thấy gã đã bịp cậu đâu; chủ quán bưng đến cho cậu một tách trà. “Bất cứ lúc nào mình cũng có thể trở lại chăn cừu được”, cậu ngẫm nghĩ. “Mình đã biết cách chăn cừu rồi thì không thể nào quên được. Còn đi đến Kim Tự Tháp Ai Cập thì biết đâu mình không có dịp nào khác nữa. Ông già có áo giáp bằng vàng ròng và biết chuyện đời mình thì nhất định phải là vua, một minh quân thật sự”.
Chỉ có hai giờ tàu thủy ngăn cách cậu với đồng cỏ vùng Andalusia, còn giữa cậu và Kim Tự Tháp là sa mạc mênh mông. Cậu thấy nghĩ ngược lại thế này cũng được chứ: tính ra thì cậu hiện ở gần kho tàng hơn hai tiếng, cho dù đã phải mất gần một năm để vượt quãng đường này.
“Thật dễ hiểu vì sao mình cứ thiên về lũ cừu của mình. Vì mình biết rõ chúng rồi; chăn chúng cũng chẳng cực nhọc gì và chúng dễ thương. Còn mình có ưa được sa mạc không thì chưa biết, nhưng mà kho tàng của mình chôn ở đó. Nếu không tìm thấy kho tàng thì mình vẫn trở về nước được mà. Hiện mình đủ tiền và thừa thì giờ, sao không thử nhỉ?”.
Một nỗi vui ập đến tràn ngập lòng cậu. Lúc nào cậu muốn làm kẻ chăn cừu hay thành người bán hàng pha lê cũng được. Có thể trên thế giới còn nhiều kho tàng bí mật khác nữa, nhưng cậu đã nằm mộng hai lần và một nhà vua đã xuất hiện với cậu. Đâu phải ai cũng được thế.
Cậu hân hoan rời khỏi quán nước vì chợt nhớ ra rằng một trong những người cung cấp hàng cho chủ tiệm pha lê đã chở hàng vượt sa mạc cùng với một đoàn lữ hành. Cậu nắm chặt hai viên đá Urim và Thummim; nhờ chúng mà cậu đã trở lại con đường dẫn đến kho tàng.
“Ta luôn luôn ở cạnh những kẻ đi theo con đường mình tự chọn”, ông vua già đã nói. Vậy thì mất gì mà không hỏi thử ở nhà kho xem Kim Tự Tháp có xa thật thế không.