KHÔNG CÓ THỜI GIAN TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỂ CHO TÂM XAO LÃNG
Trích: Những Giáo Lý Phowa Và Bardo; Người dịch: Ngộ Châu; NXB Thiện Tri Thức.
Dòng cuối của đoạn kệ đầu nói: “Không có thời gian trên con đường để cho tâm xao lãng.” Khi bạn mất tỉnh giác và trở nên bị xao lãng, bạn quên mất tình yêu thương và lòng bi mẫn. Do đó bạn phải chánh niệm. Chánh niệm biết rằng tình yêu thương và lòng bi mẫn rất quý báu. Biết được điều này, bạn sẽ không cho phép tình yêu thương và lòng bi mẫn suy yếu, ngay cả khi trả giá bằng mạng sống của mình. Ngài Milarepa đã nói: “Căn nguyên của các cõi thấp là thù hận. Do đó, hãy tu tập tính kham nhẫn ngay cả khi phải trả giá bằng mạng sống của mình”. Bạn nên nghĩ, “Ngay cả khi ai đó đã giết tôi, tôi sẽ không bao giờ từ bỏ tình yêu thương và lòng bi mẫn.” Hoạt động của chánh niệm là duy trì tình yêu thương và lòng bi mẫn. Bản chất của thiền định là thoát khỏi xao lãng. Có nói rằng thoát khỏi xao lãng là con đường của tất cả chư Phật và sự chăm chú đó là nền tảng cho mọi phẩm tính tốt đẹp. Một khi chúng ta không xao lãng, chúng ta làm gì với sự không xao lãng này? Đây thật sự là một điểm rất quan trọng, vì vậy bạn nên xem xét nó cẩn thận. Điểm cốt yếu của điều bạn cần làm với sự không xao lãng là thực sự phi thường. Công việc của bạn đưa những phóng chiếu của tâm vào con đường, là chứng ngộ ba thân. Theo Ba Mươi Bảy Pháp Tu, “Những hiện tướng là tự tâm của tôi. Ngay từ ban đầu, bản tánh của tâm giải thoát khỏi mọi thái cực của tạo tác.” Một ai đó thực hành không xao lãng thì rõ biết rằng những hiện tướng là tự tâm của mình. Chúng ta, những chúng sanh bình phàm vẫn tách biệt giữa đối tượng tri giác bên ngoài và chủ thể tri giác bên trong. Ví dụ, chúng ta nói “Tôi đến từ Mỹ,” ngụ ý sự tách biệt với những người khác, sự tách biệt giữa “tôi” và sự xuất hiện của “Mỹ.” Nhưng không có sự tách biệt thật sự. Tri giác này chỉ là một sự chế tạo của tâm thức.
Những phóng chiếu của tâm là tất cả những đối tượng bên ngoài, những tri giác của chúng ta, các hiện tượng mà chúng ta nắm bắt được khi chúng xuất hiện với chúng ta. Dường như có một tâm bên trong đang nắm bắt các đối tượng bên ngoài. Nhưng mối quan hệ thật sự giữa mối quan hệ tâm bên trong và những đối tượng bên ngoài là gì? Đôi khi có những tư tưởng bám luyến và ghét bỏ rất mạnh mẽ trong tâm, dữ dội đến mức chúng ta không thể để chúng đi, và vì vậy chúng liên tục khởi sanh trong tâm. Tại sao chúng ta không thể để chúng đi? Đó là bởi vì chúng ta tin vào sự hiện hữu thực sự của cái chúng ta tri giác được. Chúng ta tin rằng các đối tượng được tri giác bên ngoài là thật và hiện hữu riêng biệt với chúng ta. Bởi vì niềm tin này, chúng ta khởi sanh nhiều tư tưởng của bám luyến và ghét bỏ liên quan đến các đối tượng và chúng sanh bên ngoài. Chúng ta phải nhận biết rằng những tri giác này là những phóng chiếu của tâm chúng ta, và tự tâm là trống không. Vũ trụ được phóng chiếu ra bên ngoài xuất hiện với chúng ta là sự sáng tạo của nghiệp tập thể và những dấu ấn thói quen của chúng sanh. Mọi thứ đều do tâm tạo. Ví dụ, tòa nhà này mà chúng ta ở và nhận những giáo lý là được tạo ra bởi tâm. Đầu tiên, một tâm con người tưởng tượng ra nó, nó trở thành một ý tưởng, dẫn họ đến việc xây dựng tòa nhà. Như vậy, tòa nhà này thì được tạo ra bởi tâm của con người. Tương tự như vậy, mọi thứ khác, ngay cả thân thể chúng ta, đều là một sự sáng tạo của tâm. Tất cả những gì được tạo ra, mọi thứ xuất hiện và hiện hữu, đều có bản chất là vô thường; những hiện tướng là những hiện tượng hữu vi. Do đó, chúng sẽ không hiện hữu lâu dài mà sẽ tan rã. Toàn bộ vũ trụ bên ngoài sẽ tan rã và không có một chúng sanh nào mà không tan rã. Tất cả mọi thứ sẽ sụp đổ, xuất hiện rồi lại sụp đổ. Tất cả những hiện tướng bên ngoài đều là những sáng tạo của nghiệp và những dấu ấn thói quen của chúng ta. Đôi khi chúng xuất hiện trong một thời gian dài hơn như một kết quả của một số nghiệp, nhưng cuối cùng chúng sẽ tan rã. Toàn bộ vũ trụ là sự sáng tạo của nghiệp tập thể và những dấu ấn thói quen của tất cả chúng sanh. Hiểu được điều này, bạn sẽ thấy toàn bộ vũ trụ như một giấc mộng, một sự phóng chiếu đơn thuần của nghiệp và những dấu ấn thói quen của chính bạn. Khi bạn nhìn vào người đang tạo ra tất cả những thứ ấy, chính là tâm, bạn sẽ thấy rằng tâm cũng giống như không gian. Người chứng ngộ bản tánh của tâm sẽ chứng ngộ bản tánh của toàn bộ vũ trụ và tất cả chúng sanh. Chúng ta phải chứng ngộ rằng mọi hiện tướng đều được tạo ra bởi tâm, và cái mà được tạo ra, không có sự hiện hữu cố hữu, không có bất kỳ đặc tính nào. Khi người ta nhìn vào tâm, người mà đã tạo ra tất cả những thứ ấy, nó không thể được tìm thấy. Nó không thể được nói là hiện hữu cũng như không thể được nói là không hiện hữu. Nó thoát khỏi mọi giới hạn như vậy; cuối cùng nó là trống không. Vì vậy, có nói, “tất cả mọi hiện tướng đều là tâm của chính mình.” Vũ trụ bên ngoài và chúng sanh bên trong được tạo ra bởi tâm, và khi bạn cố gắng để tìm tâm, bạn không thể tìm thấy bất cứ thứ gì có bất cứ sự hiện hữu thực sự nào. Sự không thấy bất kỳ điều gì này là chân lý tối hậu.
Ngài Milarepa đã nói “Tôi không thấy những hiện tượng, tôi thấy bản tánh của những hiện tượng.” Những sự vật xuất hiện nhưng chúng không có tự tánh; chúng trống không, nhưng chúng xuất hiện. Trong Tâm Kinh có nói, “sắc là tánh Không và tánh Không là sắc. Sắc không khác với tánh Không, và tánh Không thì không khác sắc.” Các nhà khoa học nghiên cứu các hạt nguyên tử, cố gắng tìm ra thứ gì đó không thể giản lược được hoặc hoàn toàn có thể biết được, nhưng họ đã không thể. Bằng cách này, họ chạm trán tánh Không, nhưng họ chưa tìm thấy một tên cho nó. Đức Phật đã tìm một tên cho nó và gọi nó là tánh Không. Chúng ta có thể hiểu rõ điều này khi chúng ta so sánh Trung ấm Đời sống với Trung ấm Giấc mộng. Giống như trong những giấc mộng của chúng ta, mọi thứ đều do tâm tạo. Đức Phật dạy rằng vũ trụ bên ngoài thì được tạo ra bởi nghiệp chung và những khuynh hướng của chúng sanh. Ví dụ, mọi người nhìn vào hộ chiếu của họ và nghĩ rằng họ là người Mỹ hoặc người Singapore hoặc người Đức. Hàng tỷ người trên thế giới xác nhận bản thân theo cách này.
Hiện tượng của giấc mộng giúp chúng ta hiểu được cách tâm tạo ra thế giới. Như chúng ta đã nói, thế giới bên ngoài được tạo ra bởi nghiệp tập thế và những khuynh hướng thói quen. Mỗi chúng sanh là kết quả của nghiệp cá nhân, công đức hoặc những hành động tiêu cực của chính họ. Điều này tạo ra một lượng lớn chúng sanh khác nhau, xuất hiện dưới các hình tướng khác nhau: người hoặc thú, chúng sanh có thân và không có thân và vân vân. Làm thế nào vũ trụ do tâm tạo? Hãy nghĩ một người đang ngủ trên giường của họ; thân thể thì bất động, nhưng tâm đang mộng, tạo ra cả một vũ trụ và những chúng sanh trong thế giới mộng. Người mộng tham gia vào nhiều hoạt động, anh ta gặp những chúng sanh khác, có những kẻ thù và những bạn bè; anh ta có một gia đình và trải qua hạnh phúc và đau khổ. Đó là kinh nghiệm cá nhân của anh ấy. Một người ngồi cạnh giường chỉ thấy anh ta đang ngủ và không nhìn thấy được những gì mà anh ta đang thấy.
Sau này, sau khi chúng ta chết, đời sống này sẽ xuất hiện như một giấc mộng. Đức Phật nói rằng khi chúng ta chết và đi vào trung ấm, cũng giống như đi ra khỏi một giấc mộng và tỉnh dậy trong giấc mộng của trung ấm. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không tỉnh dậy trở lại trong cuộc đời này; nó đã trôi qua. Hạnh phúc là thật và đau khổ là thật, từ quan điểm của một người tin vào sự thực của những kinh nghiệm đó. Do sự bám nắm này, tâm trở nên giống như một khối băng, và tạo ra sanh tử. Bằng cách này, chính chúng ta tạo ra sanh tử. Vũ trụ bên ngoài là vô hạn và tất cả mọi thứ bên trong nó là vô hạn, nhưng tất cả đều bao gồm trong năm đại và do đó có cùng một bản tánh. Ví dụ, nếu bạn lấy lên một ít đất, nó cùng bản chất với toàn bộ hành tinh trái đất. Khi bạn thổi vào nó, nó phân tán và biến mất. Bản tánh của chúng sanh đều như nhau. Tạm thời, họ bám nắm vào một cái được cho là thật, vào một cái gì đó không thật sự hiện hữu, điều này khiến tâm của họ trở nên giống như một khối băng, và điều này tạo ra sanh tử.
Khi bạn bám víu vào sự thật của tư tưởng của bạn và bị chúng thúc đẩy, tham gia vào các hành động, bạn tích lũy nghiệp và hình thành những khuôn khổ thói quen. Những khuynh hướng này, những dấu ấn này trong tâm là tảng băng của bạn. Nhưng cuối cùng, nước trong tảng băng không phải là cứng vĩnh viễn. Trong những điều kiện nhất định nó có thể tan chảy. Bản tánh của nước thì chứa đựng trong nước đá, nước, hơi nước, và vân vân. Đây là cách chúng ta có thể hiểu được tâm. Dù có nhiều chúng sanh trong sanh tử, nền tảng của tâm họ thì hoàn toàn như nhau. Nó giống như sự khác biệt giữa băng và nước. Một ví dụ khác là năng lượng ánh sáng, có nhiều dạng. Có ánh sáng, nhiệt, sóng âm, và điện. Năng lượng ánh sáng biểu hiện theo nhiều cách, nhưng cuối cùng nó vẫn là một năng lượng như nhau. Bằng cách này, chúng ta xác quyết rằng tất cả những hiện tướng đều là tâm, rằng mọi thứ đều do tâm tạo.
Tâm của một sinh vật nhỏ bé, tâm của một chúng sanh không có một thân, và tâm của chính bạn có cùng bản tánh. Hãy xem xét một người bạn. Bạn đó có thật không? Làm thế nào để anh ta hiện hữu? Thân thể anh ta là một hợp chất. Bây giờ có sự sống trong thân thế, nhưng một khi thân thể chết đi, nó chỉ là một cái xác và nó trở thành không có gì. Vì vậy, bạn có thể xác định rằng người bạn của bạn không phải là thân thể. Vậy thì anh ấy có thể là tâm. Nhưng làm sao bạn có thể biết tâm người bạn của bạn? Bạn không thể biết nó trừ khi bạn biết tâm của chính mình. Vì vậy, trước tiên bạn phải nhìn vào tâm của chính mình. Sau đó, khi bạn chứng ngộ được bản tánh của tâm, bạn tự nhiên chứng ngộ được bản tánh của mọi hiện tượng của sanh tử và niết bàn. Sau khi chứng ngộ bản tánh của tâm, bạn thấy rằng tâm của chính bạn và tâm người bạn của bạn có cùng một nền tảng. Nếu bạn hiểu được điều này, bạn có thể đạt được một sự hiểu biết về tánh giác nguyên sơ bất nhị. Khi bạn chứng ngộ rằng tâm của bạn không thật sự hiện hữu nhưng thường trụ như không gian, thì bạn cũng sẽ chứng ngộ rằng tâm người bạn của bạn và tâm của mọi người cũng có cùng bản tánh. Chứng ngộ điều này, bạn sẽ không bám nắm vào sự có thật của những gì xuất hiện với bạn.
Mặc dù chúng ta hiểu được tính rỗng rang của tâm bất nhị, vẫn còn khái niệm “ta” và “người.” Chúng xuất hiện với chúng ta. Chúng ta có thể thấy chúng. Chúng dường như thật sự ở đó. Nhưng mặc dù chúng dường như có mặt ở đó, chúng thật ra không thật sự hiện hữu. Chúng không có bất kỳ bản chất hiện hữu cá thể nào. Chúng không hiện hữu theo cách chúng xuất hiện. Đây là cách được giải thích trong những giáo lý về suy luận logic: Khi bạn tìm kiếm một thứ gì hiện hữu vĩnh viễn, bạn sẽ không tìm thấy nó. Cái bạn sẽ tìm thấy khi bạn nhìn vào tâm của bạn là bản tánh như không gian – Phật tánh. Bản tánh này không thể được gọi “hiện hữu” hay “không hiện hữu”. Bạn không thể phân tích nó, bạn chỉ có thể an trụ trong nó. Khi bạn an trụ trong bản tánh của tâm, không có khái niệm có một đối tượng, tuy nhiên, nó không phải là không có gì cả. Bất cứ điều gì khởi sanh trong tâm đều là tạm thời. Những tư tưởng và những cảm xúc phiền não tạm thời khởi sanh do những hoàn cảnh tạm thời khác nhau. Mặc dù những tư tưởng khởi sanh, tâm, Phật tánh, tiếp tục thường trụ như không gian.
Đức Phật nói, “Chúng sanh bị che ám bởi những vết bẩn ngẫu nhiên.” Những vết bẩn này không thật sự hiện hữu – chúng chỉ là tạm thời. Chúng ta đã xác minh rằng con người không thật sự hiện hữu – rằng thân thể không thật sự hiện hữu. Khi chúng ta nhìn vào tâm, chúng ta có thể thấy những tư tưởng và những cảm xúc phiền não đó chỉ là tạm thời; chúng không thực sự hiện hữu. Khi bạn hiểu được bản tánh của tâm và tiếp tục an trụ bên trong nó, thì dần dần, khối băng của sự bám nắm sẽ bị tan rã và tất cả mọi sự bám nắm sẽ bị tan biến. Để bắt đầu, những tư tưởng chưa bao giờ thật sự hiện hữu. Dựa trên sự hiểu biết này, chúng ta thực hành con đường. Trên con đường, chúng ta nên thiền định thoát khỏi xao lãng, tập trung vào trạng thái thoát khỏi xao lãng này. Chúng ta tập làm quen bằng cách không bám nắm bất cứ cái gì khởi sanh: những tư tưởng và những cảm xúc phiền não. Đây là cách bạn trở nên được giải thoát. Khi bạn được giải thoát, bạn chứng ngộ điều gì? Ban đầu bạn chứng ngộ rằng các hiện tướng là tâm. Sau đó, khi bạn chứng ngộ tâm, bạn chứng ngộ rằng nó là tánh Không. Người đã tạo ra mọi thứ là tánh Không. Bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ sự hiện hữu thực sự nào. Bạn chứng ngộ rằng, dù ta và người xuất hiện, họ không hiện hữu thực sự. Khi bạn chứng ngộ bản tánh của tâm, bạn chứng ngộ nền tảng duy nhất của cả hai, sanh tử và niết bàn. Bằng cách này, bạn nên quan sát bản tánh của tâm, biết rằng hiện tướng và hiện hữu đều do tâm tạo. Khi bạn chứng ngộ bản tánh của tâm chính mình, bạn sẽ hiểu bản tánh của mọi hiện tượng trong sanh tử và niết bàn.