MỌI CHÚNG SINH LÀ PHẬT

Trích: “Trở Về Yên Lặng”; “Thiền Trong Đời Sống Hàng Ngày”; Người dịch: Thái An; Nhà Xuất Bản Hồng Đức

02/10/2025
95 lượt xem

Trong Thiền tông có một nghi thức nhập môn Phật đạo. Nghi thức bao gồm sám hối trong tâm, quy y Tam Bảo, nguyện tu tập ba thanh tĩnh giới chung và mười giới cấm. Nghi thức này dựa trên nền tảng sám hối, mà trong Phật giáo nghĩa là sự mở lòng trọn vẹn. Nếu hoàn toàn cởi mở, dù ý thức hay vô thức, chúng ta cũng sẵn sàng lắng nghe tiếng nói vô thanh của pháp giới.

Đầu tiên chúng ta sám hối, qua đó lắng nghe được tiếng nói của pháp giới, rồi quy y Tam Bảo (hay Tam quy). Nếu mở lòng, tiếp theo chúng ta phải biểu thị cuộc sống của mình trong pháp giới, bởi toàn bộ thân tâm của chúng ta được pháp giới ôm ấp. Không có cách nào khác. Vì vậy, Tam Bảo là mục tiêu trong đời. Khi nhận ra sự tồn tại của mình trong pháp giới, tự nhiên chúng ta thấy được mục tiêu này. Ba thanh tĩnh giới chung là cách thức để sống trong khát vọng sâu xa muốn giúp đỡ mọi chúng sinh. Mười cấm giới là những lời dạy phải làm theo để đưa bản thân hoà nhập vào vạn vật bằng cách đặt sang bên sự xác lập của bản ngã. Tất cả những gì chúng ta phải làm là liên tục tu tập như vậy mãi mãi, ngày này qua ngày khác, bất kể có cảm nhận được tiếng nói của pháp giới hay không.

Lối vào Phật đạo được biểu thị bởi ba điểm: thứ nhất, sự thực chứng chân lý rằng mọi chúng sinh là Phật; thứ hai, khát vọng sâu xa và kiên định sống cuộc đời mình trong an bình, hoà hợp với mọi chúng sinh dưới ánh sáng của Phật; và thứ ba, giúp đỡ mọi chúng sinh. Thể nhập Phật đạo tức là thấy và tạo ra cơ hội thực chứng ba điểm quan trọng này.

Điểm thứ nhất là nhận ra chân lý mọi chúng sinh là Phật. Trong hai ngàn năm trăm năm, chư Phật và chư tổ đã luôn chỉ ra chúng ta đều là Phật. Đây là sự xác thực rằng chúng ta lớn lao hơn sự suy nghĩ của con người. Tất cả những gì phải làm là nhận ra chân lý này. Nhận ra nghĩa là biết và hấp thu chân lý ấy, rồi nó sẽ tự biểu thị.

Thế nào là “biết”? Có ba kiểu biết: cái biết bình thường, cái biết vượt trên bình thường, và cái biết tối thượng. Cái biết bình thường là tư duy biện biệt, phân tích mà chúng ta sử dụng hàng ngày. Nó nhìn nhận thế gian như thể được tạo ra từ những thành phần cố định và tách rời. Bạn bè, con cái, cha mẹ của chúng ta, các đối tượng – tất cả được nhìn nhận tách rời khỏi nhau và khỏi chúng ta. Từ góc nhìn này, rất khó để có là giao tiếp an bình hoặc để trao cho bản thân sự cống hiến trọn vẹn, sự một lòng với cuộc sống của người khác. Khi giúp con cái mình làm bài tập về nhà, tại sao bạn không giúp bằng toàn bộ sự tận tâm cống hiến, để khi ấy cuộc đời bạn được thấy trong chính cuộc đời của con cái? Nó là thời gian của bạn, nhưng thời gian của bạn không xuất hiện trên bề mặt, thời gian của con cái bạn mới xuất hiện trên bề mặt. Thời gian của bạn được tìm thấy trong thời gian của con cái. Phật giáo luôn dạy rằng bạn nên tìm thấy thời gian của mình trong thời gian của người khác. Đây được gọi là sự toàn tâm, đây được gọi là “giúp đỡ”. Không có sự phân chia. Bạn là đứa con, đứa con là bạn.

Cái biết thứ hai là cái biết vượt trên sự hiểu biết thông thường. Nó có nghĩa là cố gắng để biết chân lý – rắng thế gian là vô thường. Theo nghĩa thông thường, chúng ta nhìn nhận mọi thứ cố định. Nếu muốn biết sâu xa cuộc sống con người là gì, chúng ta nên chú tâm vào sự thật vô thường. Lập tức, chúng ta cảm nhận được điều gì đó từ vô thường. Có thể chúng ta cảm thấy tư lự, và nói: “Đừng nói rằng thế gian vô thường, vì như thế bi quan quá”. Nhưng, bất kể kinh nghiệm hay cảm xúc về vô thường của chúng ta là gì, thế gian là vô thường.

Vậy chúng ta không nên bám vào cảm xúc hay kinh nghiệm của mình. Bạn nên thấy bạn, người luôn biến mất, biến mất trong thế giới của người khác. Khi giúp ai đó, bạn luôn được tìm thấy trong cuộc sống của người ấy; nhưng hình dáng cuộc đời bạn lại không được để lại dấu vết nào trong cuộc đời của người ấy. Đây giống như mối quan hệ giữa sóng và nước: Nếu nhân ra sự tồn tại của sóng, không có nghĩa sóng tồn tại tách rời khỏi nước; chúng luôn được tìm thấy trong cảnh giới của nước, liên tục vận động trong tầm vóc lớn hơn của cuộc sống gọi là nước. Nếu bạn hành thiện, thiên choán đầy cả thế gian. Các chúng sinh còn lại của thế gian hoàn toàn bị ẩn đằng sau việc bạn hành thiền. Khi giúp ai đó, bạn phải toàn tâm. Khi ấy, bạn choán đầy cả thế gian. Cuộc sống của người khác bị ẩn trong bạn. Đây được gọi là “giúp đỡ”.

Hãy đặt giá trị vào pháp, không phải vào kinh nghiệm hay cảm xúc cá nhân. Nghĩa là, hãy đặt gia trị vào tầm vóc lớn hơn của cuộc sống, và mở lòng; dù thấy tư lự, cũng hãy mở lòng. Khi ấy, nếu phải giúp, hãy giúp; nếu phải chăm lo cuộc sống của mình, hãy chăm lo. Dù cảm thấy gì, dù tư lự hay không, thích hay không, hãy mở lòng và làm điều phải làm. Từ lối sống này, bạn thực sự có thể chăm lo đến từng cảm xúc và kinh nghiệm cá biệt; cuộc sống của bạn se nở hoa. Nó sẽ thực sự hữu ích.

Thứ ba là cái biết tối thượng. Cái biết tối thượng là biết làm thế nào sống trong thế gian, thấy rõ bức tranh tổng thể những chúng sinh đang hoà hợp với nhau. Điều này nghĩa là khi bạn giúp ai đó, có cùng một nền tảng và chỉ một nền tảng mà trên đó bạn có thể thấy hai cuộc sống liên tục hoán đổi cho nhau. Hai cuộc sống ấy không thể được thấy là tách rời. Nếu tôi nói “tôi”, cuộc sống của người khác cũng đồng thời ở đó. Nếu tôi nói “cuộc sống của người khác”, lập tức cuộc sống của người ấy được tìm thấy trong cuộc sống của tôi, bởi lẽ những gì chứa đựng trong cuộc sống của tôi không chỉ là của tôi, mà đồng thời bao gồm cuộc sống của người ấy. Tôi không thể phớt lờ cuộc sống của người ấy. Tự nhiên, cả hai được kết nối. Vì vậy, cuộc sống của người ấy không chỉ là của người ấy, mà cũng là của tôi. Với cái biết tối thượng, chúng ta có thể thấy một bức tranh đẹp đẽ, trong đó hai thứ đang liên tục hoán đổi cho nhau. Đây là nơi chúng ta phải an trụ. Cảnh giới Phật luôn cho chúng ta bức tranh tổng thể, nơi nhiều thứ đang liên tục hoán đổi cho nhau. Tôi không thể tồn tại, không thể sống còn nếu không có tất cả những người khác. Tôi có thể giúp bởi vì người khác không phải là khác; người khác là những gì thuộc về cuộc đời tôi, người khác hoàn toàn được ôm trọn trong cuộc đời tôi, cuộc sống qua tôi được tìm thấy trong cuộc sống của người khác. Khi đó, tôi có thể làm với sự toàn tâm. Đây được gọi là cái biết tối thượng.

Đã hiểu ba cái biết khác nhau, và ý nghĩa của việc biết sự thật rằng mọi chúng sinh là Phật, tiếp theo chúng ta phải chấp nhận sự thật này. Chấp nhận sự thật nghĩa là hấp thu cái biết đã có. Hấp thu nghĩa là tiêu hoá cái biết ấy. Nếu có cái biết, bạn đã có thực phẩm tinh thần. Thực phẩm này giúp bạn sống giúp còn, giúp bạn hiện hữu. Nhưng nếu thức ăn cứ ở nguyên trong dạ dày, bạn sẽ sinh bệnh. Vậy thức ăn phải được tiêu hoá. Điều đó rất rõ ràng. Nếu bạn có kiến thức nhất định về thế giới loài người, về cuộc sống con người, bạn phải dành thời gian tiêu hoá nó. Đây được gọi là “chấp nhận”. Sự chấp nhận đòi hỏi bạn dành thời gian hiểu làm thế nào đưa kiến thức, ý tưởng, hy vọng vào thực hành trong cuộc sống hàng ngày. Điều này không dễ, nó đòi hỏi rất nhiều thời gian thực hiện. Nhưng chúng ta nên dành thời gian. Nếu cái biết được tiêu hoá hoàn toàn, khi ấy không có dấu vết của kiến thức, vì kiến thức chuyển thành năng lượng sống, thành chính cuộc sống. Tất cả những gì bạn thấy chỉ là năng lượng sống vận động hàng ngày. Thực chứng là như vậy.

Trong Kinh Pháp Cú, kệ 228, Đức Phật nói: “Chưa từng bao giờ, hiện tại không bao giờ và sẽ không bao giờ có một người luôn bị đổ lỗi hoặc một người luôn được tán dương”. Đúng vậy. Tôi không thể nói tôi là một vị thầy lớn, vì tôi vốn biết sự tồn tại của mình đem lại rắc rối cho một số người. Tôi không thể nói “người thầy tốt”, nhưng mặt khác, tôi cũng không thể nói “người thấy xấu”. Vậy bạn phải thấy một bức tranh với hai thứ tồn tại, liên tục hoán đổi cho nhau. Có một bài thơ của Gensho Ogura như sau:

Thấy người không ưa từ một khoảng cách;

Thấy người yêu thích kề bên;

Đến gần hơn nữa với người không ưa;

Đi xa khỏi người yêu thích.

Đến gần và đi xa,

cuộc sống sao mà thú vị!

Thông thường, chúng ta chỉ muốn ở gần người mình ưa. Khi thấy người mình không ưa, chúng ta luôn muốn tránh xa. Đây là điều tự nhiên, nhưng ngược lại, đôi khi chúng ta phải đến gần hơn với người đó. Khi ấy, chúng ta mới thật sự hiểu người đó. Không thể luôn giữ khoảng cách với người mình không ưa và luôn ở gần người mình yêu thích. Vậy, nơi mình phải an trụ có phải là một nơi nhất định, mà tại đó chúng ta luôn có thể ở gần người mình mong muốn ở gần không? Đây có phải là nơi chúng ta an trụ để nhìn thấy bức tranh toàn cảnh trong sự bình đẳng không? Không. Chúng ta có nên tránh xa người mình không mong muốn ở gần? Đây cũng không phải là nơi cho chúng ta. Vậy nơi cho chúng ta an trụ phải là bức tranh toàn cảnh, tại đó chúng ta thấy được nhiều thứ đang liên tục hoán đổi cho nhau. Tuy nhiên, nơi đó rất ổn định, kiên cố, không thể lay chuyển. Nếu bạn không hiểu, có một cách để trải nghiệm điều này. Bạn phải hào hiệp, rộng lượng, nhân từ, trắc ẩn, và bạn phải là niềm vui. Niềm vui này không phải là sự ưa thích; niềm vui này đến tự nhiên từ đáy lòng. Nếu bạn rộng lượng dù chỉ trong một khoảnh khắc, niềm vui sẽ đến từ đáy lòng. Niềm vui nghĩa là sự cảm kích, biết ơn. Dù bạn không thấy sự cảm kích hay biết ơn ấy, nhưng nếu trở nên rộng lượng hoặc hào hiệp trong bất kỳ tình huống nào mình rơi vào, khi ấy niềm vui, sự cảm kích và biết ơn sẽ từ nền tảng khởi lên, giống như nước suối chảy ra từ núi, bởi lẽ bạn là một sinh linh, bạn là Phật. Đó chính là biết, chấp nhận và thực chứng. Đó là ý nghĩa của nhận ra chân lý mọi chúng sinh là Phật.

Điểm thứ hai biểu thị sự thể nhập Phật đạo là khát vọng sâu xa và kiên định sống cuộc sống của mình trong sự an bình và hoà hợp với mọi chúng sinh. Đây là cảnh giới Phật, tại đó chúng ta thấy bức tranh toàn cảnh của cuộc sống hoán đổi cho nhau, người này ở bên người khác, liên tục đan xen vào nhau. Thế gian luôn thay đổi, nên chúng ta luôn cảm thấy bất an. Thực tế, tâm ta, cuộc sống của ta lúc nào cũng chao đảo, chúng ta luôn phàn nàn vì có quá nhiều chướng ngại. Nhưng, về căn bản, tất cả những gì chúng ta phải làm là liên tục mang theo khát vọng sâu xa kiên định này, ý nguyện sống an bình và hoà hợp với mọi chúng sinh này. Và chúng ta phải sống ý nguyện này theo lời Phật dạy, theo cuộc sống của Phật, không phải theo ý tưởng riêng của mình. Đó là ý nghĩa của “trong ánh sáng của Phật”.

Điểm thứ ba biểu thị sự thể nhập Phật đạo là giúp đỡ mọi chúng sinh. Chúng ta có nhiều cách để giúp. Sử dụng giấy vệ sinh cẩn thận cũng là đang giúp người khác. Đừng kỳ vọng sự giúp đỡ to tát. Trong cuộc sống hàng ngày, lúc nào chúng ta cũng có thể giúp đỡ ai đó hay cái gì đó. Đây là giáo huấn thiền. Đây là mục tiêu của sự thể nhập Phật đạo.

Thấy được cơ hội đi vào Phật đạo tức là thấy được cách lật một cái lá mới. Nó là bước đầu tiên đi vào một thế giới mới dù bạn không biết. Để đi vào Phật đạo, chúng ta nên thấy và tạo ra cơ hội này, nhưng nếu không hiểu cơ hội này, bạn đừng thúc ép bản thân, đừng rút lui, đừng hèn nhát. “Đừng hèn nhát” nghĩa là bạn nên chủ động tạo ra cơ hội lớn này một cách tích cực. Hầu hết mọi người nếu không hiểu sẽ rút lui, bạn nên tiến tới.

Dù ít hay nhiều, ý thức hay vô thức, mọi người đều đang tìm kiếm một điều tối thượng. Bạn có thể không hiểu, nhưng đó là lý do bạn tới thiên đường (zendo) và thực hành toạ thiên. Bạn hiểu toạ thiên như thế nào? Bạn không hiểu rõ, nhưng một thứ gì đó buộc bạn thực hành lối tu tập này. Đây thực sự là một cách sống tích cực. Bạn đang tạo ra cơ hội lớn vì muốn tìm kiếm một điều tối thượng, dù không biết nó có nghĩa là gì. Mọi người đều có năng lực này.

Ghi chú:

Quy y Tam Bảo gồm: Xin quy y Phật, xin quy y Pháp, xin quy y Tăng. Ba thanh tĩnh giới chung gồm: Không làm mọi điều ác; làm mọi điều thiện; thanh tĩnh tâm. Mười giới cấm gồm: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; không nói dối, không dùng chất gây nghiện; không vọng ngữ; không khen mình chê người, không tham pháp; không giận dữ, không phỉ báng Tam Bảo.