NẶNG NHỌC VÀ NHẸ NHÀNG

Trích: Nghệ Thuật Sống Thăng Bằng Và Điều Hòa Thân Tâm; NXB: Văn Hoá Thông Tin 2005.

03/06/2025
65 lượt xem

Câu chuyện nhà sư tu Thiền cắt đứt cánh tay để chứng tỏ sự quyết tâm thực hành và hình ảnh nụ cười không thể dò của Đức Phật chỉ ra một tương tác tế nhị khi sống đời sống thực hành. Một mặt, chúng ta có những nỗ lực chế ngự, và mặt khác, chúng ta chỉ để như vậy. Thường chúng ta dễ bối rối vì sự phân biệt này; và bởi vì chúng ta thiên về lối suy nghĩ hoặc trắng hoặc đen, chúng ta tưởng tượng thực hành phải là một cách này hay cách kia. Hoặc chúng ta thấy sự rèn luyện là quan trọng biết bao và rất nỗ lực, hay chúng ta hiểu sự cần thiết thôi nắm bắt, thôi cố gắng có được cái gì đặc biệt, và do đó làm dịu nhẹ sự tiếp cận của chúng ta, chỉ để cho sự vật là thế.

Chẳng hạn, cốt tủy của ngồi thiền chỉ là hiện hữu ở đây, đem tỉnh giác đầy đủ vào chính khoảnh khắc này. Nhưng cái thực sự diễn biến là sự tuôn chảy không ngừng của trí óc quá động của chúng ta: tính toán, tưởng tượng, nói chuyện, bận rộn và v.v… Để không bị mỗi tư tưởng thoáng qua móc giữ, chúng ta học rèn luyện trở đi trở lại, khoảnh khắc này qua khoảnh khắc kia, đưa tỉnh giác trở lại hơi thở, thân thể môi trường. Chúng ta cũng rèn luyện sự chính xác đặt tên cho những tư tưởng, thế nên chúng ta có thể biết rõ ràng cái chúng ta đang suy nghĩ đồng thời phá vỡ sự đồng hóa với những tư tưởng của mình. Khi càng thấy rõ chúng chỉ là những tư tưởng, chúng ta ít tin chúng là “chân lý” hơn.

Kỷ luật, hay cố gắng khó nhọc, cũng cần thiết để ở với thực hành qua mọi thăng trầm không thể tránh. Ở mỗi giây phút chúng ta có một chọn lựa: sống đời sống thực hành hay ra đi tìm kiếm tiện nghi và an toàn. Trong thực hành chúng ta học giá trị của nỗ lực lìa khỏi tiện nghi hay chắc ăn, thậm chí có khi chúng ta không muốn gì hơn là vất bỏ nỗ lực vô vọng để thức tỉnh này.

Kỷ luật quan trọng đến độ dễ dàng lạc mất trong một khung cảnh thực hành như khổ hạnh hay kỷ luật quân đội. Có khi chúng ta giữ niềm tin rằng không duy trì kỷ luật, chúng ta sẽ sa đọa, thậm chí chúng ta mất cá tính của mình như một người nghiêm trang và tâm linh. Thế nên chúng ta tiếp tục tranh đấu chống lại những phần này của chúng ta mà chúng ta nghĩ là chúng phá hoại sự thực hành của chúng ta. Nhưng khi buộc quá chặt, chúng ta rơi vào khuôn khổ của sự tự phê phán không ngừng, của những tư tưởng được tin chắc về thực hành phải như thế nào, về tôi phải như thế nào.

Rồi có lẽ chúng ta sẽ có cái nhìn vào điều chúng ta đang làm và đi đến chỗ chấm dứt kia của dòng tương tục. Chúng ta nhớ lại giáo lý, rằng mọi sự là tốt đẹp như chúng là, rằng trong màn diễn đang trôi qua thì không có gì để làm, không có chỗ nào để đi, không có ai để hiện hữu. Thế nên chúng ta bỏ kỷ luật và cố gắng thư giãn trong cái đang là. Chúng ta cố gắng chỉ để sự vật là thế. Nhưng khi cố gắng làm dịu nhẹ, chúng ta vẫn còn được điều động trong cố gắng. Chỉ bởi vì mọi sự thật ra là tốt đẹp như chúng vốn là thì không nhất thiết có nghĩa là chúng ta kinh nghiệm mọi sự là tốt đẹp như chúng vốn là. Giả vờ làm là một lớp phủ trang điểm. Nó phớt lờ sự cần thiết đem cố gắng vào công việc soi sáng đời sống lộn xộn của chúng ta.

Sự tương tác giữa khó nhọc và nhẹ nhàng là cốt tủy của thực hành. Không học sự tương tác ấy chúng ta sẽ giới hạn sự thực hành của chúng ta trong một không gian không bao giờ đầy đủ, bởi vì nó làm hẹp sự trôi chảy của con người tự nhiên của chúng ta thành chỉ một dòng.

Sự tương tác giữa nặng nhọc và nhẹ nhàng thì khó giải thích. Chúng ta cần kinh nghiệm nó để hiểu nó là gì. Rút gọn lại là khi học được rằng trong kỷ luật, chọn lựa hiện hữu ở đây vào mọi lúc, chúng ta hiểu rằng bất cứ khi nào chúng ta xoay vào, nhất là những vùng chúng ta không thích, chúng ta có thể thúc đẩy một cảm thức trống trải, lòng bi, và lòng từ đối với sự chiến đấu. Thay vì bị bắt vào một đường hầm tối, hẹp của bức ảnh chúng ta nghĩ về mình, với sự nặng nề nghiêm trọng, chúng ta học thấy mớ hổ lốn ngăn ngại chúng ta chỉ là sự bị điều kiện hóa, chỉ là những vết thương cũ và những niềm tin cốt lõi.

Khi chúng ta thấy mình xoay vào lãnh vực tâm trí, khuôn khổ thông thường của chúng ta là chất thêm những lớp phán xét và tự phán xét: “Điều này quá khó”, “Tôi không thể làm”, “Tôi không hy vọng”… Những lớp này chỉ làm dày thêm vỏ cứng quanh trái tim. Trau dồi một cảm thức về một không gian cho phép chúng ta dừng lại lối “nặng nhọc” bằng cách chiến đấu chống lại chính mình, đẩy đi những lộn xộn của chúng ta như là xấu hay như một ảo tưởng. Làm nhẹ cho phép từ bi bẩm sinh của chúng ta lộ diện, từ bi sẽ cho phép chúng ta hiện hữu với bất cứ cái gì sanh khởi. Thế không có nghĩa là chúng ta thích nó, mà chúng ta liên hệ với nó theo một cách mới.

Bi kịch, đau đớn, khổ đau của chúng ta đôi khi cảm thấy giống như cái chết. Một trong những bài học thực hành là không phối hợp nữa những niềm tin và những cảm giác thân thể. Cái hiểu thực nghiệm này sẽ cho chúng ta sự trống trải để cho đau đớn chỉ ở đó. Chúng ta còn cần làm việc với nó; chúng ta không thể chỉ đặt tên nó là trống không và giả bộ để nó ra đi. Điều ấy không thành thực. Nhưng chúng ta có thể tiếp cận với nó bằng tấm lòng nhẹ nhàng. Học làm như vậy sẽ chuyển hóa và làm nhẹ ý chí của chúng ta.

Hãy lấy thí dụ ngồi với sự đau đớn, khi đầu gối đau, đùi đau, lưng đau, loại nỗ lực nào chúng cần? Đôi khi chúng ta có thể nghiến răng đi qua với một nỗ lực nặng nhọc. Nhưng chúng ta cũng có thể học dần dần về nỗ lực nhẹ nhàng của việc chỉ ngồi ở đây với thân thể, không cảm thấy đồng hóa nữa với thân thể hay với đau đớn. Khi dùng nỗ lực nặng nhọc để ngừng tin vào những tư tưởng “tôi không thể chịu nổi nữa”, “thật quá đau”, những đồng hóa quy ngã và không biết khôi hài sẽ nhẹ đi. Điều này không có nghĩa chúng ta thích đau đớn; nó chỉ có nghĩa chúng ta thôi chiến đấu với đau đớn và với chính chúng ta. Chúng ta học rằng chúng ta có thể thậm chí sẵn lòng hiện hữu ở đây với những cảm giác khó chịu. Cái bao hàm trong tiến trình thấy suốt những tư tưởng được tin tưởng của chúng ta là tính tiếp nhận với cái đang là. Đây là nỗ lực nhẹ nhàng.

Tiến trình tương tác của nỗ lực nặng nhọc và nhẹ nhàng đặc biệt quan trọng trong khi làm việc với những nghiện ngập. Dĩ nhiên, giai đoạn thứ nhất trong làm việc với một nghiện ngập là trở nên tỉnh thức với tính khí nghiện ngập và với phạm vi chúng ta bị những thôi thúc nghiện ngập điều động. Nỗ lực chính trong giai đoạn này là áp dụng sự sáng tỏ và chính xác của tỉnh giác vào cái đang diễn ra. Chính ở đây mà kỷ luật tự quan sát là chìa khóa. Khác bao nhiêu khi chúng ta thấy những khía cạnh của chính mình mà chúng ta thích không biết đến hay từ chối hơn? Chừng nào chúng ta không biết những nghiện ngập của chúng ta là gì, chúng ta không thể làm việc với chúng.

Khi chúng ta đã rõ cái gì đang xảy ra, giai đoạn thứ hai trong làm việc với những nghiện ngập là cố gắng nhịn thái độ nghiện ngập. Loại kỷ luật này là điều chúng ta gọi là một nỗ lực nặng nhọc, nhưng nỗ lực nhẹ nhàng cũng cần thiết. Nỗ lực nhẹ nhàng là cái giữ cho chúng ta không lạc mất trong cái nhìn đường hầm của sự tự phê phán tiêu cực. Khi chúng ta chiến đấu với nghiện ngập, hầu như chắc chắn chúng ta sẽ rơi vào niềm tin cho rằng sự nghiện ngập của mình là xấu hay cả chúng ta cũng xấu. Tầng lớp ghép thêm của mờ tối và nặng nề làm cho sự lìa khỏi thái độ nghiên ngập thành ra còn khó hơn. Để cho kỷ luật có hiệu quả, chúng ta phải làm nhẹ sự nặng nhọc của sự tự phê phán.

Giai đoạn thứ ba trong làm việc với những nghiện ngập là kinh nghiệm những thôi thúc để từ đó những thái độ nghiện ngập của chúng ta sanh khởi. Điều này đòi hỏi nỗ lực nặng nhọc của “cái gì đây?”, trong đó chúng ta tập trung tia laser của tỉnh giác vào thực tại thân thể của khoảnh khắc. Một khi chúng ta kinh nghiệm sự thôi thúc nghiện ngập, chúng ta có thể ủng hộ phẩm tính nhẹ nhàng và chỉ để nó là như vậy. Có thể ích lợi đặc biệt khi cảm nhận tính chất khao khát trong hơi thở vào. Điều này cho phép những khao khát thành nhẹ nhàng hơn.

Giai đoạn chót của làm việc với những nghiện ngập là kinh nghiệm sự đau đớn bị nén dưới thôi thúc nghiện ngập. Điều này lại đòi hỏi nỗ lực nặng nhọc của câu hỏi “cái gì đây?” cũng như nỗ lực nhẹ nhàng của việc để cho những cảm nhận cứ hiện hữu mà không mắc vào sự tự phê phán. Giai đoạn này rất quan trọng khi có thể đem lại một cảm thức về không gian và lòng từ cho thực hành. Nếu không chúng ta sẽ tiếp tục sự chiến đấu không ngừng chống lại chính mình, dễ dàng chìm trong những tư tưởng nhục nhã, tự giận ghét và tuyệt vọng. Thậm chí trong những giây phút ngột ngạt nhất, chúng ta lấy vài hơi thở vào không gian trong lòng để khám phá sự rỗng rang đủ để bao gồm mọi sự. Dĩ nhiên, chúng ta cần thực hành với mỗi giai đoạn này bằng cách lập đi lập lại.

Đây là một thí dụ khác về nỗ lực nhẹ nhàng. Khi hệ thống miễn dịch của tôi rối loạn, tôi cảm thấy rất yếu và buồn nôn. Dù phần lớn thời gian tương đối OK, đôi khi nó đến quá mạnh và nhanh đến nỗi phản ứng đầu tiên, mặc dù đã có nhiều năm thực hành với nó, là muốn nó đi khỏi.

Trong một cơn đau, tôi nằm trên giường ban đêm với sự buồn nôn không ngừng, tôi thấy mình liên hệ với những triệu chứng như kẻ thù. Nhưng từ khi đặt tên cho những tư tưởng đặt nền trên sợ hãi và thấy thấu đến chúng, có cái gì bật ra, và tôi nhận thấy sự sâu thẳm của những hiểu sai của mình. Dù tôi có thể cố gắng xua đi kinh nghiệm của mình, sự kiện còn lại là bất cứ cái gì xảy ra ngay tại đây đều là đời sống đích thực của tôi. Thích hay không, đời sống này là cái đang là. Ôm lấy nó thay vì đẩy nó ra là chìa khóa của tự do. Hiểu điều này cho phép tôi kinh nghiệm lại lần nữa cái gọi là làm nhẹ nhàng toàn bộ cuộc chiến đấu, thôi chống cự với cái đang là. Và tôi có thể sẵn lòng “lên tàu”… Bất kể tôi thích hay không thích cuộc đi, tôi sẽ nắm lấy dây cương để thấy nó là gì và nó đi đâu, không có hành trang tự thương xót và sợ hãi. Tự thương hại, sợ, than vãn, mọi thứ phê phán, là những chướng ngại cho sự làm nhẹ nhàng và buông thả cho cái đang là.

Đây là tiến bộ tự nhiên của đời sống thực hành. Chúng ta cần kỷ luật để thấy những tầng lớp này của những tư tưởng phê phán và của những bức ảnh tâm thức. Và nó đòi hỏi nỗ lực nặng nhọc để ở lại với sự khó chịu của thân thể đến cùng những tư tưởng này. Nhưng chúng ta cần hiểu nên chỉ hít vào trung tâm ngực, trú ngụ trong sự rung rinh của con người, rồi trải rộng sự trống trải và lòng bi đến những khuôn khổ chiến đấu, bị quy định, điều đó là cốt tủy của cái có nghĩa và làm nhẹ nhàng. Làm nhẹ những niềm tin nặng nhọc về chính mình là thực sự hiểu rằng những cái đó không phải là những chân lý sâu nhất về chúng ta. Khi chúng ta học làm thế nào để bao bọc những nỗ lực nhẹ nhàng này quanh tâm thức phê phán không dứt của chúng ta, khi học đánh thức một cảm thức về lòng có nghĩa là cái gì, chúng ta bắt đầu liên hệ với một cách thức mới lạ, trống rộng hơn cho vết thương cũ của sự tách biệt của chúng ta. Điều chúng ta đang học là nhận lấy và chấp thuận toàn thể hiện hữu của chúng ta, đúng như nó là, không phê phán, sắp xếp, chối bỏ nó nữa.

Qua sự chính xác được rèn luyện của những nỗ lực, chúng ta sẽ đến trở đi trở lại bờ biên giới của chúng ta, những nơi chốn khó khăn mà chúng ta trước kia không thể vượt qua. Qua sự sẵn lòng làm nhẹ nhàng và quy thuận cái đang là, chúng ta học rằng chúng ta có thể dần dần qua khỏi bờ biên giới này. Chỉ bằng sự tương tác của nặng nhọc và nhẹ nhàng, của nỗ lực và để cho nó như vậy, của ý chí và sẵn lòng, mà chúng ta học nơi sự kinh ngạc của chúng ta là chúng ta có thể vươn lên khỏi đường hầm suốt đời của sự sợ hãi, để biến đời sống phụ phẩm của chúng ta thành thực tại thực chất của đời sống nguyên tuyền đích thực.