PHONG TRÀO RIME KHÔNG BỘ PHÁI

KHENTRUL RINPOCHE

Trích: ĐƯỜNG ĐI CỦA PHẬT - Giới Thiệu về Phong Trào và Tinh Thần Bất Bộ Phái Rimé
Nguyên tác của Khentrul Rinpoche (Jonang/Rimé).
Nguyễn Thanh Hà chuyển ngữ (2008) - Tâm Bảo Đàn hiệu đính
Nguồn: www.rimebuddhism.com

KHENTRUL RINPOCHE: là trụ trì của Mardo Tashi Choling ở Đông Tây Tạng. Ngài đã thiết lập một trung tâm nhập thất ở đó. Ngài đã dạy giáo lý ở shedra, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy Khenpo Jigmed Phuntsok Rinpoche. Ngài đã nhận được dòng truyền thừa Nyingt’hig (bao gồm Nyingt’hig Yabzhi, Dzod Dun, Ngalso Korsum, Yeshe Lama, và Chetzun Nyingt’hig), cũng như hàng nghìn các quán đảnh, truyền khẩu thánh thư, và giải thích về các hướng dẫn cốt lõi cho Đại Viên Mãn thực hành. Ngoài ra, Khentrul đã nhận được truyền thông hiếm khi truyền miệng của dòng Nyingt’hig của Khenpo Ngakchung. Từ Jigme Phuntsok Rinpoche , Dodrubchen Rinpoche, Penor Rinpoche, và Katok Moktza Rinpoche, ngài đã nhận được tất cả các truyền bá thánh thư cho chu kỳ Kama và Terma của trường Nyingma.

?????

PHONG TRÀO RIME KHÔNG BỘ PHÁI LÀ GÌ?

Một vài người có thể nghĩ rằng Rime (Rimed, đọc là Rimê) là một truyền thống riêng biệt trong Phật Giáo Tây Tạng, hay đó là một truyền thống mới, tách biệt khỏi tám dòng truyền thừa hay năm truyền thống lớn. Cả hai điều này đều không đúng. Thật ra, đây là một phong trào được khởi xướng vào cuối thế kỷ 19, nhằm đánh giá sự khác biệt giữa các tông phái Tây Tạng và thừa nhận tầm quan trọng của sự khác biệt này để mang lại lợi ích cho các hành giả với những nhu cầu khác nhau. Các bậc thầy Rime hoặc là được dạy dỗ theo một truyền thống và qua chứng ngộ của mình, các ngài nhận thấy rằng những điều cốt lõi của truyền thống này cũng có giá trị như các truyền thống khác, hoặc họ đã thành tựu được những hiểu biết uyên thâm từ tất cả các truyền thống khác nhau.

Các bậc thầy Rime vĩ đại như ngài Jamgon Kongtrul và Ngài Jamyang Khyentse Wangpo không từng học một truyền thống đặt biệt nào gọi là Rime. Thay vào đó, họ được tiếp nhận trong một dòng truyền thừa và rồi họ nhận ra sự tương đồng giữa các tông phái Phật giáo khác nhau tại Tây Tạng. Ví dụ, ngài Jamgon Kongtrul được tiếp nhận truyền thống Kagyu, trong khi ngài Khyentse Wangpo nguyên uỷ lại là người nắm giữ dòng Sakya. Cũng có rất nhiều bậc thầy Rime của dòng Nyingma như ngài Patrul Rinpoche và Jigme Tenpe Nyima. Trong truyền thống Jonang cũng có rất nhiều các bậc thầy Rime vĩ đại, như ngài Kunga Dolchog, người mà ngay từ rất sớm ở giữa thế kỷ 15 đã tổng hợp các phương pháp tu tập và quán đảnh của từng truyền thống Phật giáo Tây Tạng trong tài liệu Jonang Tridgyapa (mang tên này vì được soạn bởi Lạt ma Jonang). Sau này, ngài Jamgon Kongtrul Vĩ Đại đã sử dụng tài liệu này như nền tảng cho tài liệu chi tiết hơn, Rinchen Terzod. Cũng vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 được dạy dỗ và giáo dục theo truyền thống Gelug. Tuy nhiên, giờ đây ngài được tôn vinh như một người không chỉ thấu hiểu mà còn chứng ngộ được quan điểm của tất cả các truyền thống Tây Tạng mà ngài đều tôn trọng như nhau. Vì vậy chúng ta thực sự có thể nói rằng Đức Đạt Lai Lạt ma là một bậc thầy Rime vĩ đại, chứ không chỉ là người đứng đầu Tông phái Gelug. Tôi đã nhận được sự giáo huấn từ nhiều bậc thầy khác nhau, nhưng đặc biệt chí thành đối với ngài Jonangpa Kyabje Lobsang Tinley, là người chỉ sống tại tu viện Jonang. Mặc dù ngài chỉ học theo giáo huấn Jonang, qua chứng ngộ của chính mình, ngài đã quán triệt được quan điểm của tất cả các truyền thống và đã gặp được rất nhiều học giả, những người đều có ấn tượng sâu sắc với hiểu biết rộng lớn của ngài.

Tôn ảnh Ngài Jamyang Khyentse Wangpo – Bậc thầy Rimé vĩ đại

TẠI SAO PHONG TRÀO RIME QUAN TRỌNG?

Theo truyền thống, các hành giả Phật giáo Tây Tạng nhấn mạnh tầm quan trọng về quan niệm và các giáo hoá thông qua dòng truyền thừa riêng của họ, điều này rất quan trọng để gìn giữ tính xác thực của các giáo huấn. Thêm vào đó, rất nhiều hành giả sẵn sàng dành cả đời mình trong một tu viện đồng thời dành toàn bộ thời gian và sức lực để tu học thấu đáo sự truyền dạy theo một truyền thống (chẳng hạn như nhận truyền thừa và các giáo huấn cốt tuỷ), nên họ không còn thời gian để khám phá điều gì khác. Vì những phong tục như thế này mà có nguy cơ là một số hành giả không cởi mở đối với các quan niệm khác cũng như các giá trị tốt đẹp của các truyền thống khác. Có một vài câu chuyện nực cười, ví dụ, của một vài Geshe theo truyền thống Gelug, đây là những người thực hành Dzogchen một cách bí mật và sau đó thì phải bị nhận những lời chỉ trích khi bị phát hiện là họ đang làm theo các hướng dẫn của dòng Nyingma.

Một lý do khác làm cho Rime trở nên quan trọng là sự liên hệ giữa các tu viện có thể bị hạn chế và một vài tu viện có khuynh hướng sinh hoạt độc lập theo khuôn mẫu chừng mực nào đó. Chẳng hạn như, không giống như ở các nước phương Tây, việc đi lại ở đây rất hạn chế, không có điện thoại, không có tivi và không có báo chí. Do đó, hiếm có các cơ hội để có thể khám phá và phát triển lòng tôn trọng đối với các truyền thống khác ‐ việc ấy rất là hạn chế.

Thêm vào đó, có rất nhiều học giả uyên thâm đã phê phán quan niệm của các truyền thống khác với một dụng ý vị kỷ là giúp cho đệ tử của mình đánh giá cao các giáo huấn của họ. Tuy nhiên, điều này đôi khi trở nên hơi thái quá và một vài đệ tử có thể nuôi dưỡng thái độ rằng các truyền thống khác, trong một cách nhìn nào đó, là thấp kém. Quan điểm riêng của tôi là một vài học giả Tây Tạng đã trở nên ham thích cách tiếp cận của một số bậc thầy Ấn độ vĩ đại và sau đó cố gắng tranh đua với các bậc đại sư này bằng cách phê phán các truyền thống khác. Tuy nhiên, thái độ phê phán rất chân thành của các bậc thầy Ấn độ phải được nhìn nhận trong bối cảnh của các cuộc tranh luận lớn giữa các tín đồ Bà La Môn (Hindu) và các Phật tử, với kết cuộc là phía những người thua cuộc sẵn sàng chấp nhận luận điểm của phía kia. Ở Tây Tạng, vì tất cả mọi người đều có chung quan điểm Phật giáo, có lẽ là không cần thiết để xoáy mạnh một cách thái quá các khác biệt mơ hồ, mà thật sự chỉ là cách mô tả khác nhau những chứng nghiệm giống nhau. Vì tất cả các lý do [tranh đua phê phán như trên mà việc các Phật tử nhìn nhận thấy ra rằng tất cả các truyền thống với cùng một trọng điểm là một điều có thể rất khó khăn. Điều này không chỉ đúng ở Tây tạng và Ấn độ, nơi mà thỉnh thoảng có tập quán chỉ trích công khai người khác, mà điều này cũng đúng đối với những Phật tử mới nhập môn. Không may là họ cũng có thể trở thành nạn nhân của các định kiến hay quan điểm sai lầm rằng chỉ có một truyền thống là thật sự đáng tin cậy, hay rằng để làm một đệ tử hành Pháp chân chính thì chỉ nên theo một tông phái này thay vì một tông phái khác. Tôi đã từng có kinh nghiệm, thí dụ, về một số người Tây phương miễn cưỡng mua các cuốn sách hay tiếp nhận các giáo huấn của các Lạt ma ở bên ngoài một truyền thống [mà họ đang theo]. Đây là lý do tại sao, mặc dầu tôi không phải là một bậc thầy Rime cao quí, tôi vẫn cố gắng cổ vũ tinh thần Rime hết sức mình, đặc biệt là để giúp các đệ tử mới của Phật giáo.

Tôi cảm thấy rất được an ủi khi, vào năm 2003, đức Đạt Lai Lạt Ma nói riêng với tôi rằng ngài lấy làm cảm kích vì tôi là một Lạt ma Rime, rằng điều này là rất hiếm có, rất quan trọng và đáng được đánh giá cao. Ngài nói về sự ngưỡng mộ của ngài với hai Lạt ma Golok, những người mà ngài thường nhắc đến khi nói chuyện với công chúng, bậc thầy của dòng Nyingma ‐ Dodrupchen Jigme Tenpe Nyima và bậc thầy của dòng Gelugpa ‐ Chawoe Tulku Songrab Gyamtso, những người dùng kiến thức đáng kinh ngạc và đáng tôn trọng của mình để cổ vũ một cách công bình cho tất cả các truyền thống.

Nói tóm lại, phong trào Rime là một phong trào hợp thời và là một phong trào duy nhất với các kết quả vĩ đại. Điều này có được là nhờ rất nhiều vào hai vĩ nhân của thế kỷ 19, ngài Khyentse Wangpo và ngài Jamgon Kongtrul [Lodro Thaye]. Không có các nỗ lực phi thường của các ngài trong việc sưu tầm và truyền dạy các giáo huấn khác nhau thì rất có thể nhiều tài liệu Phật giáo đã bị thất truyền. Điều này cũng giúp phá bỏ truyền thống tôn sùng một dòng truyền thừa, vì điều đã cô lập một số tông phái này với các tông phái khác, và thiết lập nên một nền móng từ đó nhiều người có thể nhìn thấy được tất cả các tông phái với cùng một trọng điểm. Trên thực tế, chính Đức Phật cũng đã ngăn cấm đệ tử của mình phê phán các vị thầy và những lời giáo huấn từ các truyền thống và văn hoá khác nhau. Đây cũng chính là những gì Rime thể hiện.

____*____

Trích: ĐƯỜNG ĐI CỦA PHẬT – Giới Thiệu về Phong Trào và Tinh Thần Bất Bộ Phái Rimé
Nguyên tác của Khentrul Rinpoche (Jonang/Rimé).
Nguyễn Thanh Hà chuyển ngữ (2008) – Tâm Bảo Đàn hiệu đính
Nguồn: www.rimebuddhism.com

Bình luận


Bài viết mới

  1. AI CŨNG MUỐN NÓI VỀ BẢN THÂN MÌNH
  2. TÔI NHƯNG KHÔNG PHẢI LÀ TÔI – HT. THÍCH THÁNH NGHIÊM
  3. KORA – ĐI TRONG ÂN SỦNG