RYÔNEN GENSO (1646 – 1711) – NI SƯ THIỀN NHẬT BẢN

Trích: Nghệ Thuật Zen; Người Dịch: Tư Tam Định; NXB Văn Hóa Thông Tin

23/04/2025
72 lượt xem

Tuy các nữ tu sĩ không hiếm trong Zen, song ít có người đạt được danh vọng; Ryônen Genso, nổi tiếng thành công trong nghệ thuật cũng như trong đạo, là một người như vậy. Bà sinh ra trong một gia đình quyền quý thuộc một dòng họ có cội nguồn từ trên một ngàn năm, nhà bà ở gần Sen.yu-ji, một ngôi chùa hoàng tộc ở Kyôto. Thân phụ của bà, Katsurayama Tamehisa (1600 – 1673), là hậu duệ của một vị tướng nổi tiếng, Takeda Shingen (1521 – 1573), và ông là một người không tôn giáo có học, thuộc hệ Zen của trường phái Rinzai. Ông nổi tiếng giỏi về thư pháp và trà đạo, cũng như là người hiểu biết về các bức họa cổ xưa. Thân mẫu của Ryônen, qua đời năm 1685, thuộc dòng họ Konoe, giới quý tộc của triều đình, là một cung phi của Tôfukumon-in (1603 – 1674).

Từ lúc còn nhỏ, Ryônen đã nổi tiếng là thông minh và xinh đẹp; bà theo mẹ, vào hầu hạ trong cung. Từ bảy đến mười một tuổi cùng chơi đùa với các cháu gái và cháu trai gọi Tôfukumon-in bằng ông. Bà cũng luyện cả những nghệ thuật khác và những hình thức tiêu khiển thời đó, như thư pháp và thơ waka. Trong khi bà làm việc trong triều đình thì ở bên ngoài, hai cậu em trai của bà trở thành các tu sĩ Zen: Unpô Genchu (1647 – 1712) vào một chùa của trường phái Ôbaku lúc bảy tuổi, và Daizui Genki (1652 – 1717) vào tu viện Rinzai ở Nanzen-ji (mà về sau song thân ông được chôn cất tại đó), và về sau, năm 1690 nhận được chứng nhận đốn ngộ từ tay Kôsen (1633-1695). Có điều kỳ lạ là Ryônen và hai người em trai của bà đều chết ở tuổi bảy mươi (tính theo kiểu Nhật).

Đến tuổi trưởng thành, bà trở lại gia đình và theo học về thơ ca. Khi ở tuổi mười sáu hoặc mười bảy, theo tập quán thời đó, bà lấy chồng theo sự sắp đặt; ông mối lại chính là Konoe Motohiro, cháu trai của Tôfukumon-in, người từng chơi đùa với bà lúc tuổi thơ. Chồng bà là một thầy thuốc và nhà Khổng học Matsuda Bansui (còn được biết dưới tên gọi Ju.an, (1630-1703). Họ có nhiều con cái, số lượng bao nhiêu theo các nguồn tư liệu không được nhất quán, song có lẽ là bốn đứa, một trong số đó chết khi còn ít tuổi.

Khoảng mười năm sau khi thành hôn, năm 1672 bà đi tu, có lẽ là đã nhất trí trước với chồng. Dường như bà đã chuẩn bị an phận làm thiếp trông nom việc gia đình, song lại đến Hôkyô-ji, ngôi chùa hoàng gia Rinzai ở Kyôto, khi đó người trụ trì là con gái hoàng đế Go-Mizunoo, công chúa Zenni. Sau sáu năm ở đó, Ryônen đi tới Edo để tiếp tục học Zen. Trước hết, bà đến Kôfuku-ji để yết kiến Tetsugyu của Ôbaku, song ông này nói rằng bà quá đẹp chẳng nên đến ở tu viện của ông; vì bà sẽ làm phân tán quá nhiều sự tập trung chú ý của các môn sinh ông. Sau đó, bà đến một nơi tu hành khổ hạnh ở Daikyu-an và gặp ở đó Haku-ô Dôtai (chết năm 1682), ông này cùng với Tet-sugyu đã từng là môn đồ của Mokuan, và được ông chứng nhận ngộ đạt năm 1675; nhưng vị sư phụ này cũng từ chối để bà ở lại đó. Thế là Ryônen chỉ còn con đường phạm vào một hành động cực đoan, mà lại khiến bà nổi tiếng.

Một trong những tác phẩm thư pháp của bà (hình 47) thuật lại cho chúng ta hoàn cảnh của bà và thêm vào đó những bài thơ theo phong cách Trung Hoa và Nhật Bản mà bà đã làm vào thời đó:

Lúc trẻ, tôi giúp việc cho Yoshino-kimi, cháu gái của Tôfukumon-in và là môn đồ của chùa hoàng gia Hôkyô-ji. Cô ấy vừa mới qua đời; dù tôi biết đó là quy luật của tự nhiên, song cái bất trường cửu của thế gian tác động sâu xa đến tôi và tôi đi tu. Tôi cắt tóc, nhuộm đen y phục và hành hương tới Edo. Ở đó tôi được tiếp kiến vị tu sĩ Haku-ô của trường phái Ôbaku. Tôi nói với vị đó về sự hết lòng sùng đạo Phật của tôi từ khi còn tuổi thơ, song ông trả lời tôi rằng, dù ông không một chút nghi ngờ về lòng thành của tôi, song tôi không thể thoát khỏi nhan sắc nhi nữ của tôi. Biết vậy, tôi bèn lấy một miếng sắt nung lên và dí vào mặt của mình, rồi tôi cầm bút lông mà viết:

Trong triều tôi đốt nhang thơm

Giải tỏa tâm lý nhẹ lâng tinh thần.

Giờ đây tôi đến cõi Thiền

Tự tay tôi đốt mặt mình xám đen.

Bốn mùa con tạo xoay vần

Dòng vô thường đó biết mình là ai.

Trong cõi đời này sẽ

Thật đáng thương cho phần thân xác phó thác cho lửa đốt tôi.

Nếu như còn nhìn thấy ở mình

Một điều gì đó khác hơn là củi than.

Thư pháp trong tác phẩm này bộc lộ kiểu đào tạo trong triều ở Ryônen theo truyền thống Shôkadô (xem Chương 1), và nét quen thuộc của những kiểu viết Trung Hoa đời Đường, nhưng cũng toát lên vẻ lưu loát của phong cách Ôbaku. Ryônen đã hợp nhất những ảnh hưởng khác nhau này để có được một phương pháp hoàn toàn của riêng mình trong việc sử dụng bút viết, làm cho xen kẽ những chỗ tối sáng, những nét cứng mềm, đem đến cho các chữ một nhịp điệu riêng. Một vài nét nghiêng nối các chữ lại với nhau và có nhiều chữ kết thúc ở các dạng tròn trịa. Ấn tượng chung là ấn tượng về một động thái lặng lẽ nhưng không thể thay đổi được, đi từ nét này sang nét khác, chẳng khác chi sự kiện thật khác thường mà bà kể ra cũng tự nhiên và không thể tránh được như chính dòng đời. Không có một vẻ đẹp đập vào mắt nào trong cuộn thư pháp này; tuy là khổ nhỏ, nhưng nội dung phong phú được thể hiện bởi một tài năng nghệ thuật có chiều sâu.

Câu chuyện Ryônen dùng sắt nung làm cháy xém mặt trở nên nổi tiếng, và được thể hiện trong bộ sưu tập các bản vẽ có tên là Kinsei meika shoga-dan (Các nhà thư pháp và họa sĩ nổi tiếng thời hiện đại). Trong bản in khắc gỗ này có hình những người qua đường hốt hoảng xông vào trong khi bà vẫn bình tĩnh hủy hoại nét mặt xinh đẹp của mình (hình 45). Hành động cực đoan này đã đạt được mục đích cần tìm tới: Haku-ô rất xúc động về nhiệt tình muốn đến với Zen của bà, và đã chấp nhận để bà vào Daikyu-an. Bà trở thành môn đồ chính của vị tu sĩ này, và ông đã thừa nhận sự đốn ngộ nơi bà vào năm 1682, cũng chính là năm ông qua đời.

Ryônen muốn xây một ngôi chùa để vinh danh sư phụ mình, nhưng điều này hầu như không thể thực hiện được, bởi ở thời đó, giới shogun chỉ cho phép trùng tu các ngôi chùa cổ, và ngay việc này cũng khó xin được những giấy phép cần thiết. Nhiều năm trôi qua trước khi yêu cầu của bà được chấp nhận; giữa lúc đó thì Haku-ô qua đời, nhưng vị nữ tu sĩ này vẫn tâm niệm đến trách nhiệm của mình. Người ta dành cho bà một mảnh đất ở Ochiai, ngoại vi Edo, năm 1693, và bà trùng tu một ngôi chùa đã bị hoang phế, chùa Renjô-in, trong khi cho xây một Quan Âm các mới. Haku-ô được truy tặng là người sáng lập Renjô-in trùng tu đó, và Ryônen trở thành nữ trụ trì thứ hai. Năm 1701, ngôi chùa này được làm cho to rộng ra, và trở thành tu viện hoàn toàn riêng, tu viện Taiun-ji. Ryônen đã dự kiến việc này từ nhiều năm trước, kể cả việc nhờ Mokuan viết cho tấm biển thư pháp “Taiun-ji”, song ông này đã qua đời năm 1684.

Trở thành nữ trụ trì, vị nữ tu này nổi tiếng là có những việc làm đẹp đạo tốt đời, chẳng hạn việc xây một cây cầu trên một nhánh sông ở vùng lân cận. Bà cũng nổi tiếng có kiến thức uyên bác: Taiun-ji trở thành một trung tâm giảng dạy nổi tiếng của Ôbaku, và trẻ ở các làng bên cũng được đến học ở đó. Song chính những điều bà thực hiện được trong lĩnh vực thơ ca, thư pháp và hội họa mới là những điều được hậu thế đặc biệt ghi nhận. Tập Kinsei meika shoga-dan có cho in một trong những bài thơ chữ Hán của bà với một kiểu chữ viết dễ nhận ra được, Bà mô tả nỗi buồn khi phải từ biệt một người bạn gái:

TÌM VẺ ĐẸP CỦA MÙA XUÂN

THEO PHONG CÁCH MỘT BÀI THƠ XUÂN

Tuổi già sồng sộc tới mau

Buồn tê tái ngắm bốn mùa trôi qua.

Nên lòng nhìn cánh hoa rơi

Xa nhau đâu dễ có ngày gặp nhau.

Hành trình biết có giải khuây

Để cho khỏi thấy phai tàn sắc xuân.

Bà cũng xuất sắc về thơ cổ điển Nhật Bản chẳng kém gì thơ Trung Hoa, và đã cho công bố năm 1691 một tập thơ waka có tên là Waka- murasaki (Màu tía nhạt), tiếc rằng chúng ta không có được trong tay. Nhật ký của bà cũng bị một đám cháy lớn thiêu rụi, đám cháy này còn hủy mất những hình ảnh về bà, được vẽ và điêu khắc.

Tài năng của Ryônen còn thể hiện ở hội họa; trong số những tác phẩm của bà có những bức chân dung của các vị tổ sư của Ôbaku, như bức tranh bộ ba Ingen, Mokuan và Sokuhi, hiện có trong sưu tập ở Hôden-ji. Những chân dung này vẽ theo phong cách chính thống các chinsô của Obaku, và rất có thể chỉ là những bản sao những tác phẩm mà Ryônen đã có dịp được nhìn thấy, bởi chắc chắn bà không gặp đích thực các vị sư phụ này.

Những người ngưỡng mộ Ryônen coi bà là một trong những phụ nữ tài năng nhất giai đoạn đầu thời đại Edo. Dưới đây là nội dung mà cậu em trai Unpô viết trả lời một trong những bức thư của bà:

Em đang ngồi bên cửa sổ nhìn ra những ngọn thông, những bông hoa núi xòe ra bao màu chế giễu, chim vàng anh cùng cất tiếng đàn “gin”. Bỗng người ta mang tới cho em bức thư của chị mà với em thật là quý giá, em giật nảy mình và đọc thư với cả tấm lòng trân trọng… Em thiển nghĩ nước Nhật đã gần ba trăm năm nay không hề có lấy một người phụ nữ thực sự là một hiền nhân. Hiện nay chị ở một cương vị thật cao siêu, lỗi lạc, người ta có thể ví như một bông sen trong lửa nóng mà vẫn nở hoa, hoặc trên thế gian này lại thấy xuất hiện một kỳ lân hoặc một phượng hoàng chỉ có trong thần thoại.

Những người cùng thời khác cũng viết về Ryônen. Chẳng hạn nhà thơ Bô-okushi (không rõ niên đại) đã cho xuất bản năm 1689 một cuốn sách nhan để Sayo- goromo (Dạ phục), trong đó có bài waka sau:

Mi o sutele

bodai no michi ni

iriai no chishin ga an ni

kibiku kane no oto.

Xả thân để tìm đường tới Phật

Hồi chuông chiều vang vọng trái tim khôn.

Từ “chishin” – “trái tim khôn”, được phát âm trùng với một trong những tên họ của Ryônen, đã góp cho bài thơ này một nét riêng tư.

Những tác phẩm thư pháp của vị nữ tu sĩ này hiếm được thấy, nhưng chúng ta có được một cuộn của bà với bản văn của kôan là câu hỏi thứ 37 nổi tiếng của Mumon-kan; khi một tu sĩ hỏi Jôshu : “Vấn đề Bodhidharma (Bồ-đề Đạt-ma) đến từ Tây phương có ý nghĩa như thế nào?” thì ông này trả lời: “Cây sồi trong vườn”. Chúng ta đã được thấy bản thư pháp táo bạo của Mokuan về câu hỏi này (hình 39); ngược lại, Ryônen đã viết toàn bộ kôan này theo dạng chữ thảo nhỏ nhanh, kết thúc ghi thời điểm viết, giữa mùa đông 1702 và chữ ký “Do Ryônen của Taiun-ji viết” (hình 46). Bản thư pháp này dung dị nhưng cho thấy đầy đủ về khả năng sử dụng bút lông của bà, thật vững vàng và khéo léo. Bà đã tạo ra được tính nhất quán giữa các chữ, không phải bằng cách nối trực tiếp chúng với nhau, mà bằng cách kết thúc mỗi chữ bằng một nét hướng về nét đầu tiên của chữ tiếp sau. Bà tạo cho thư pháp một nhịp lưu thủy bằng cách xen kẽ các chữ viết đậm nét với những chữ viết nhạt hơn, kèm theo những “khoảng trắng bay bổng”. Do Ryônen chấm bút vào mực cứ mỗi khi viết xong hai chữ, đôi khi ba chữ, và bốn chữ nhưng hiếm hơn, nên nhịp không đều của các nét đậm nhạt lại tạo ra một cảm nhận dễ chịu về sự không đối xứng được tăng thêm do chỉ có năm cột chữ. Tác phẩm này đáng được xem đi xem lại nhiều lần, mặc dù vẻ ngoài có phần dung dị. Những chữ nhấn nét theo chiều đứng lấn át những chữ có nét đâm ngang. Hình dáng các chữ tương phản do có những nét đôi khi cùn hoặc có góc cạnh, không một ấn tượng ngập ngừng nào. Với tài viết khéo léo không một nhược điểm, Ryônen đã đạt tới mức truyền cảm được tính tự nhiên trong mức kiểm soát; thư pháp của bà chứng tỏ những giá trị nghệ thuật Nhật Bản và Trung Hoa mà bà thâu nhận được từ nền giáo dục trong triều và từ việc tu luyện ở Obaku đã thấm đậm trong con người bà.

Ryônen cũng nổi tiếng về thư pháp khổ lớn của bà. Một trong số các tác phẩm này là bản sao bà thực hiện trên một cột duy nhất câu thơ bảy cụm âm tiết trong “Bài ca giác ngộ” của Yongjia (mất năm 713): “Pháp thân giác liễu vô nhất vật” (Pháp thân đã giác ngộ hoàn toàn thì chẳng còn một chút gì cả) (hình 48); bản gốc bằng chữ Hán còn tiếp tục như sau: “Cội nguồn của thiên nhiên thanh khiết chính là Đức Phật”. Ở đây vị nữ tu sĩ bộc lộ phong cách Ôbaku, bằng những nét chữ mập mạp, đầy đặn với sự lưu loát và rắn rỏi bên trong. Hai chữ đầu tiên có nghĩa “Dhar- makâya” (Pháp thân) được nối liền nhau và kết thúc bằng một nét chéo nhọn. Hai chữ tiếp sau “giác liễu” (thức tỉnh hoàn toàn) bắt đầu bằng một nét bút tách riêng và cũng được nối liền với nhau. Chúng dẫn tới chữ Vô (không có) mạnh mẽ, rắn rỏi, được làm cho tách biệt với các chữ kia bằng một dáng vẻ đâm ngang mạnh mẽ và một ngọn bút khô khan. Hai chữ cuối cùng, “nhất vật”, được nối với nhau khiến cho khi đọc cuộn thư pháp này thấy xuất hiện từ trên xuống dưới một nhịp bất đối xứng, hai – hai – một và – hai chữ; chữ đứng một mình là chữ Vô cốt yếu.

Năm 1703, người chồng xưa kia của Ryônen qua đời và bà dựng bia tưởng niệm ở Taiun-ji. Bà cũng làm như vậy đối với Haku-ô năm 1711, bằng chứng về sự tôn trọng và tận tâm bất di bất dịch của bà đối với sư phụ mình. Cuối mùa thu năm đó, khi cảm thấy cái chết cận kề bà đã làm một bài thơ cuối cùng:

Mùa thu thất thập cổ lai hy

Ánh nguyệt tràn trề khuôn mặt ta

Cần chi tranh cãi kôan

Lắng nghe gió thổi trên ngàn thùy dương.