TẠI SAO CHÚNG TA KHÔNG HẠNH PHÚC?
Trích: Khi Mọi Điều Không Như Ý; Hồng Hà dịch; NXB Thế Giới, Sách Nhã Nam
Câu trả lời khá đơn giản. Chúng ta không hạnh phúc vì chúng ta không tìm thấy sự bình yên với những gì đang diễn ra. Chúng ta luôn ước mọi việc sẽ khác đi. Chẳng hạn, nếu chúng ta thấy điều gì hấp dẫn hay dễ chịu, tâm trí của chúng ta không yên. Ta bị thu hút về điều đó, muốn ở gần và mong muốn tương tác với nó. Nếu có thể, chúng ta còn muốn sở hữu nó trọn vẹn và sử dụng nó theo ý muốn. Đức Phật mô tả loại truy cầu về mặt tinh thần này là “tham ái”. Khi tâm chúng ta đang tham ái một điều gì đó, chúng ta cảm thấy không thỏa mãn cho đến khi có được đối tượng trong vòng kiểm soát. Khi cảm nhận được sự không trọn vẹn, tâm trí trở nên bồn chồn và bất mãn.
Ngược lại, nếu chúng ta nhận thấy điều gì đó kém hấp dẫn hay khó chịu, tâm trí chúng ta muốn chạy trốn và tránh tiếp xúc với điều đó càng lâu càng tốt. Nếu buộc phải tiếp xúc với nó, chúng ta cố gắng làm điều đó trong thời gian ngắn nhất có thể. Không giống như tâm tham ái, tâm trí trong trạng thái này là “kháng cự”. Càng kháng cự, tình hình càng vượt ngoài khả năng chịu đựng. Chúng ta sẽ ngày càng lo lắng và thậm chí tức giận vì không thể thoát khỏi nó. Các nhà tâm lý học hiện đại gọi sự kháng cự tinh thần này là “căng thẳng”. Khi bị căng thẳng, chúng ta gần như luôn kháng cự điều gì đó – có thể là một người, một đồ vật hoặc một tình huống.
Điều này không có nghĩa là bạn không nên kháng cự những điều khiến bạn khổ sở, mà tôi chỉ đơn giản chỉ ra một thực tế rằng có thể không phải bản thân con người, vật hay tình huống nào đó khiến bạn cảm thấy không vui và căng thẳng. Ví dụ, nếu tính khó chịu là thuộc về bản chất của một người thì không chỉ riêng bạn, mà tất cả đều sẽ cảm thấy đấy là một người khó chịu. Tuy nhiên, mức độ khó chịu về một người lại tùy vào cảm nhận của mỗi cá nhân; tôi có thể thấy anh ta thật khó chịu, trong khi bạn của tôi lại cho rằng anh ta thật quyến rũ.
Vậy nguyên nhân thực sự khiến chúng ta thường xuyên bất hạnh là gì?
Theo tôi, thủ phạm thực sự là hoạt động tâm trí không ngừng hướng tới các đối tượng bên ngoài. Chừng nào tâm trí còn dao động qua lại – đeo đuổi những gì ta không có và kháng cự những gì ta đã có – nó sẽ vẫn ở trong trạng thái đấu tranh và bận rộn không ngừng. Tâm trí sẽ luôn thấy tình huống hiện tại, một cách rõ ràng hoặc mơ hồ, thiếu thỏa mãn và có vấn đề. Tâm trí như vậy thường căng thẳng và thiếu sự cởi mở linh hoạt, sự chấp nhận và sự tự nhận thức. Nếu không hướng vào bên trong và nhận thức được thói quen phản ứng của bản thân, tâm trí sẽ tiếp tục nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác – luôn đổ lỗi cho các yếu tố bên ngoài về sự khó chịu bên trong. Tâm trí như vậy cũng đòi hỏi con người, đồ vật hoặc tình huống phải thay đổi để thích ứng với sở thích của nó, vì theo loại tâm trí này, sự thay đổi mong muốn không chỉ là một giải pháp thay thế tốt hơn và hợp lý hơn mà còn là một hành động đúng đắn.
Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là tôi không cố gắng bào chữa hay biện minh cho hành vi xấu, cũng không ngụ ý rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm về sự bất hạnh của chính mình. Quan điểm của tôi là tâm trí là tác nhân trung gian, diễn giải cảm giác của chúng ta về những gì đang xảy ra ở thế giới xung quanh. Một trải nghiệm thô vốn dĩ không tốt cũng không xấu. Nó chỉ là trải nghiệm thôi. Tuy nhiên, tâm trí chúng ta nhanh chóng phán đoán và diễn giải nó thành dễ chịu hay khó chịu. Chẳng mấy ngạc nhiên khi cùng một trải nghiệm thô có thể được hiểu khác nhau, vì mỗi cá nhân đều được định hình riêng biệt tùy thuộc vào những trải nghiệm trong quá khứ của họ.
Nếu đúng như vậy thì chúng ta nên làm gì để tâm trí mình cảm thấy bình yên và thỏa mãn, thay vì không ngừng tham ái và kháng cự? Có cách thực hành nào giúp chúng ta điều chỉnh cảm xúc tốt hơn cũng như tìm thấy sự bình thản và chấp nhận không?
Cách thực hành nổi tiếng nhất để chống lại xu hướng “lang thang” của tâm trí là thực hành lòng biết ơn. Khi cảm thấy biết ơn, chúng ta thường không nghĩ về những gì mình không có hoặc muốn có. Điều này làm giảm xu hướng tham ái của tâm trí, muốn có những thứ khác. Đồng thời, tâm trí biết ơn sẽ cởi mở và dễ chấp nhận hơn, do đó cũng làm giảm xu hướng kháng cự của việc không hài lòng với những gì đang có. Khi chúng ta hạnh phúc về những gì đã xảy ra trong quá khứ và biết ơn những gì mình đang có bây giờ, tâm trí chúng ta trở nên bình tĩnh và yên bình, không giống với tâm trí kháng cự thường đầy những suy nghĩ chỉ trích, phàn nàn hoặc tranh luận. Khi trái tim chúng ta tràn ngập lòng biết ơn, sẽ không còn chỗ cho những suy nghĩ tiêu cực.
Khi thực hành lòng biết ơn, chúng ta không chỉ nhận thức được những gì mình may mắn có được như sức khỏe, công việc, nhà cửa, quần áo, thời tiết đẹp, v.v. mà còn cả những gì người khác đã mang lại cho chúng ta để duy trì cuộc sống tốt đẹp của mình. Chẳng hạn, chúng ta có thể biết ơn sự hỗ trợ không ngừng của cha mẹ, sự hài hước của bạn bè, hoặc cái ôm ấm áp của bạn đời. Chúng ta cũng có thể nói “cảm ơn” với chính mình vì đã không bỏ cuộc khi đối mặt với nhiều lần bị từ chối, vì đã vực dậy bản thân sau những tổn thương. Càng thực hành lòng biết ơn, chúng ta càng trân trọng và biết ơn những gì mình có.
Để thực hành lòng biết ơn, bạn hãy thử tìm kiếm ba đến năm điều mỗi ngày khiến bạn cảm thấy biết ơn và gửi tin nhắn cho chính mình hoặc cho một “bạn tri kỷ biết ơn” – một người sẵn lòng chia sẻ những trải nghiệm biết ơn. Một ý tưởng khác là thu thập một viên sỏi đẹp và đặt nó ở một nơi dễ thấy trong nhà bạn. Mỗi khi đi ngang qua và nhìn thấy viên sỏi, hãy tìm kiếm trong tâm trí mình một điều để biết ơn vào thời điểm đó. Bạn cũng có thể chụp ảnh mỗi khi bạn cảm thấy biết ơn và chia sẻ nó với bạn bè và gia đình. Hoặc bạn có thể tạo thói quen nói lời “cảm ơn” chân thành một cách lặng lẽ hoặc thành tiếng với những người giúp đỡ bạn tại nhà hàng, siêu thị, quán cà phê hoặc trạm xăng, trên xe buýt hoặc tàu điện.
Một phương pháp khác để đối phó với xu hướng bất an của tâm trí là hoàn toàn chào đón những trải nghiệm không vui. Bởi vì mức độ hạnh phúc của chúng ta, từ góc độ cảm xúc, chủ yếu phụ thuộc vào cách chúng ta phản ứng với tình huống, không phải là vì hoàn cảnh hiện tại. Do đó, chúng ta có thể giảm bớt nỗi đau của mình bằng cách tích cực chuyển từ tư duy phản đối sang thái độ chấp nhận. Thay vì nghĩ rằng những tình huống khó chịu không nên tồn tại, như thể chúng là những điều bất thường, chúng ta nên coi chúng như một phần mặc định của cuộc sống hằng ngày của mình. Thay vì cầu nguyện những tình huống khó khăn sẽ không bao giờ xảy ra, chúng ta không chỉ nên mong đợi trải nghiệm chúng mà còn phải chào đón chúng. Bằng cách đó, khi chúng xảy ra, chúng ta sẽ không cảm thấy ngạc nhiên hay buồn bã vì biết rằng chúng đã và sẽ luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta.
Đối với những thói quen hằng ngày như đánh răng hoặc rửa mặt vào buổi sáng, hãy dành một phút để nói với tâm trí của bạn một vài lần: “Cứ mang sự khó chịu đến đi! Ta sẽ vui vẻ chấp nhận thôi.”
Nếu đã sẵn sàng nghinh đón một tình huống khó chịu và thể hiện rõ ý định chấp nhận nó, bạn sẽ chuẩn bị tốt hơn khi thực sự gặp phải nó. Tất nhiên, nếu tình huống đó đe dọa tính mạng, hãy tránh xa nó ngay lập tức. Nhưng nếu chỉ là tình huống bình thường và không thể tránh khỏi, bạn có thể trở nên ý thức về xu hướng kháng cự và áp dụng thái độ chào đón bằng cách lặp lại lời khẳng định: “Cứ mang sự khó chịu đến đi! Ta sẽ vui vẻ chấp nhận thôi.” Sau đó, khi tình huống khó chịu đó xuất hiện, hãy đếm ngược – “ba, hai, một” – và bước thẳng vào nó không do dự.
Chúng ta cũng có thể xây dựng một mối quan hệ dễ chấp nhận hơn với nỗi bất hạnh bằng cách nhắc nhở bản thân rằng vũ trụ muốn chúng ta trưởng thành qua nỗi đau của những trải nghiệm không vui. Khi mọi tình huống đều êm đềm và dễ chịu, chúng ta không có lý do gì để phát triển và trở thành phiên bản trưởng thành hơn của chính mình.
Chỉ khi ta rời xa vùng an toàn của mình và đối diện với không gian xa lạ và khó chịu, ta mới bắt đầu học hỏi và mở rộng sự hiểu biết về trí tuệ, cảm xúc và tinh thần. Theo nhà thơ Ba Tư thế kỷ 13 Rūmī (1), “vết thương là nơi ánh sáng chiếu vào bạn”. Thay vì quay lưng tránh những vết thương, chúng ta nên cẩn thận xem xét và khám phá ánh sáng tiềm ẩn của lòng biết ơn, sự chấp nhận và trí tuệ.
Ghi chú 1: Mawlānā Jalāl-al-Dīn Muhammad Rūmī (1207–1273) là nhà thần học, nhà thơ vĩ đại viết bằng tiếng Ba Tư của Hồi giáo mật tông.