ERAN KATZ
Trích: Trí Tuệ Do Thái; Phương Oanh dịch; NXB. Lao Động-Xã Hội
“Khi trái tim một người lo cho dinh dưỡng của bản thân, người đó sẽ quên mất việc học hành. Lấy ví dụ đơn giản thế này, anh sẽ không thể ngồi im được nếu cái bụng cồn cào bởi vì cơn đói cũng là một yếu tố gây nhiễu. Nó làm chuyển hướng sự chú ý của anh và khiến anh không thể tập trung được”.
Nhận xét của Schneiderman bỗng nhiên làm tôi nhớ đến câu từ hồi Thế chiến thứ hai mà bố tôi vẫn thường kể. Bố tôi, Paul Katz, một kỹ sư khá thành đạt, sinh ra và lớn lên tại Praha. Xen giữa những lần lang thang, trốn chạy bọn Đức quốc xã, bà tôi đã luôn cố gắng dạy cho ông những kiến thức căn bản nhất. Một tối, bà đặt bố tôi ngồi lên chiếc bàn trong bếp và bắt đầu dạy ông học toán. Sau khoảng nửa tiếng ngồi mà không học được gì, bố tôi bắt đầu khóc toáng lên, kêu đói và không nghĩ được gì hết ngoài thức ăn. Bà tôi đi ra ngoài một lát sau đó quay trở lại với một ổ bánh mỳ. ‘Sau khi chén hết ổ bánh mỳ’, bố tôi thường nói, ‘bố giải quyết được mọi vấn đề mà không gặp phải trở ngại gì hết’.
“Nói cách khác, ta không thể học được với một cái bụng rỗng”, vị giáo sĩ nói. “Nếu ta muốn người Do Thái nào cũng học tập và trở nên sáng suốt, ta phải đảm bảo rằng không người Do Thái nào bị đói”.
“Và vì thế, những bà mẹ Do Thái mới được sinh ra”, Jerome cười khùng khục. “Ai cũng muốn con mình sau này trở thành bác sĩ hoặc luật sư và ai cũng cố nhồi nhét cho con mình ăn càng nhiều càng tốt. Mọi người có biết chuyện về bà mẹ Do Thái và đấu sĩ không?”.
Vị giáo sĩ, không rõ Jerome sẽ dẫn câu chuyện đến đâu, lắc đầu miễn cưỡng.
“Thời Trung đại, người ta thường đưa người Do Thái đến đấu trường để xem những đấu sĩ, để họ biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ dám làm điều gì sai. Nói cách khác, họ phải đau đớn ngồi xem những nô lệ và bọn hổ quần nhau. Chỉ có bà mẹ Do Thái là quan tâm đến số phận của những chú hổ con bên ngoài đấu trường, ‘Sao mấy con hổ con không bắt được ai để ăn?’”. Chúng tôi mỉm cười lịch sự và Itamar đóng góp một ý kiến hợp lý hơn.
“Thầy biết đấy, người ta đã chứng minh được mối quan hệ giữa dinh dưỡng và trí thông minh”, cậu ta nói với vị giáo sĩ.
“Tôi cũng có nghe nói”.
“Dinh dưỡng không đảm bảo có thể làm chậm sự phát triển trí tuệ của trẻ, thậm chí có thể dẫn đến thiểu năng trí tuệ và các vấn đề liên quan đến hành vi. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ khi mang thai nếu biết bổ sung chế độ dinh dưỡng thì con họ sinh ra sẽ có chỉ số IQ cao hơn”.
“Rất thú vị”, vị giáo sĩ nói. “Đạo Do Thái chúng ta cũng dành ưu tiên cho phụ nữ mang thai. Ông bố và những đứa con khác phải gánh trách nhiệm chịu đói, tức là phải vui vẻ ăn ít thức ăn hơn, vì bà mẹ đang mang thai. Nhưng dù sao, đối với người Do Thái, lòng từ thiện quan trọng đến mức hiếm có người Do Thái nào, dù có nghèo khổ đến đâu, phải chịu đói. Người có luôn mang cho người không có. Biết đâu được, có khi nhờ điều này mà người Do Thái thông minh thế”. Ông cười.
“Rất có thể”, Itamar trả lời. “Điều đó không có nghĩa là không có người Do Thái nào bị đói. Trong lịch sử đã ghi nhận rất nhiều trường hợp. Tuy vậy, có thể nói là rất ít người Do Thái bị tổn thương não do suy dinh dưỡng và nếu có bị đi chăng nữa thì mức độ cũng nhẹ hơn so với các dân tộc khác. Dù sao, ngày nay đạo Do Thái cũng rất chú trọng đến dinh dưỡng. Tất cả các quy định về kosher, những gì ta được ăn và không được ăn, ăn lúc nào và ăn bao nhiêu, đều xét đến mối quan hệ chặt chẽ giữa chế độ ăn uống và sức khỏe của cơ thể, một yếu tố có đóng góp khá lớn vào sự phát triển trí tuệ con người”, Itamar tránh dùng thuật ngữ ‘trí thông minh’.
“Vậy trước khi ngồi xuống học, tôi nên ăn cái gì?”, Jerome nhắc lại câu hỏi của hắn.
Vị giáo sĩ nhìn cậu sinh viên, “Cậu nghĩ sao?”.
Schneiderman bắt đầu, không một chút do dự, “Trong sách Horavot có đưa ra một danh sách các loại thức ăn có thể giúp cải thiện trí nhớ: bánh mỳ cháy (bánh mỳ nướng), trứng luộc chín cứng không muối, rượu pha với dầu ô liu và gia vị. Bản thân ô liu thường lại không tốt cho trí nhớ”. “Còn cuốn ‘Các loại thảo dược’ thì lại nói rằng mật ong, quế, mù tạt và nhiều loại thảo mộc khác rất tốt cho trí nhớ”, vị giáo sĩ bổ sung. Chúng tôi im lặng lắng nghe và gật gù. Tôi đang cố gắng hiểu được sự logic đằng sau tất cả những điều này thì Jerome, như thường lệ, thụi tôi một cú.
“Có nghiên cứu khoa học nào chứng minh những điều này không?”.
Vị giáo sĩ ngẫm nghĩ một lát trước khi nhún vai.
“Tuy vậy, tôi có nhớ là trong cộng đồng người Yeminite, người ta thường cho trẻ con uống một thìa ô liu và mật ong trước khi chúng ngồi xuống học bài”.
Jerome nhăn mặt, “Chắc Elvis Presley và Axl Rose phải ăn nhiều tỏi, hạt tiêu với dưa chua lắm”, hắn đùa.
“Tôi nghĩ, thực ra cũng không có gì khó hiểu”, Itamar ngắt lời hắn.
“Trong bánh mỳ, lòng đỏ trứng và cá có chứa chất lecitin, khi vào cơ thể chất này sẽ chuyển hóa thành kolin. Một số nghiên cứu đã chứng minh được rằng những chất này có thể làm tăng 25% khả năng tập trung và ghi nhớ của con người. Trong mật ong có glucose, chất này cùng với axit glutamid là những chất duy nhất mà não bộ có thể chuyển hóa thành năng lượng. Trong trứng có amino axit, từ chất này não sản xuất ra norphinefrin, một chất có vai trò quan trọng trong việc học tập và ghi nhớ của não, có tác dụng giảm stress. Cỏn dầu ô liu thì sao nhỉ?”. Cậu ta ngẫm nghĩ và nhìn chúng tôi. “Mọi người có muốn nghe giải thích về món này không?”.
“Chắc chắn là có chứ”, vị giáo sĩ khích lệ trong khi Jerome và tôi vẫn còn đang băn khoăn không biết Itamar lấy những thông tin đó từ đâu. “Quá trình lão hóa của não chịu tác động của các gốc tự do, và trí nhớ là một trong những thứ bị ảnh hưởng bởi quá trình lão hóa của não”, cậu ta bắt đầu giải thích. “Trong thức ăn có càng nhiều chất béo không bão hòa thì khả nàng loại bỏ các gốc tự do càng lớn. Nếu để ý đến thông tin dinh dưỡng trên bao bì các loại thức ăn, mọi người sẽ phát hiện ra rằng dầu ô liu chứa lượng chất béo không bão hòa gấp tám lần ô liu thường! Đó là lý do vì sao dầu ô liu thi tốt cho trí nhớ còn ô liu thường lại có tác dụng ngược lại”. Vị giáo sĩ vỗ đùi. “Tuyệt vời!” Ông rất thỏa mãn với bằng chứng khoa học mà Itamar vừa cung cấp.
Jerome cười với Itamar, “Thật không thể tin được. Nhờ vào món sung nhồi mật ong cậu gọi đây hả. Hay là họ đã vô tình bỏ vào đó thêm chút protin axit không bão hòa… Thật đáng kinh ngạc, Itamar à!”. Hắn cắt một miếng thịt và bò vào miệng. “Thế mà từ hồi đó đến giờ tớ cứ nghĩ cậu là một giáo sư khoa học chính trị đấy’…
Itamar chỉnh lại tư thế ngồi.
“Vì cuộc thí nghiệm nho nhỏ của chúng ta nên tớ đã nghiên cứu một chút”, cậu ta nhận.
“Chứ nếu không thi tớ cũng chẳng mấy hứng thú với hóa học đâu”. Cậu ta hơi cúi đầu.
“Taliban chắc cũng là một loại gốc tự do đấy”, Jerome nhận xét.
“Có một điều ta cẩn nhấn mạnh ở đây”, vị giáo sĩ cắt lờí Jerome, “là không bao giờ được ăn quá no. Cái gì cũng vừa phải thôi. Đừng học khi bụng đói, nhưng cũng đừng học khi no quá. Một sinh viên thông minh mà chỗ nào cũng ăn thì mọi điều học được sẽ bị trôi đi hết. Sau một bữa ăn, khi bụng vẫn còn đang căng và thức ăn chưa được tiêu hóa hết thì rất khó để học những điều đòi hỏi sự tập trung và ghi nhớ. Khi đó, cơ thể ta luôn chậm chạp, uể oải và mệt mỏi”.
Khi tất cả chúng tôi vẫn còn đang thong thả thưởng thức món ăn của minh thì Schneiderman đã xơi hết nhũng mảnh vụn cuối cùng trong đĩa và đang từ tốn lau mặt. Tốc độ ăn của cậu ta khiến tôi nhớ đến cách chúng tôi vẫn thường ăn hồi tập huấn cơ bản trong quân đội. Bất cứ món gì được đưa lên bàn trong cái tiền sảnh hỗn độn của Trại 80 đều được ngấu nghiến hết chỉ trong vòng hai phút. Có thể sinh viên trường đạo và quân nhân đều có chung một nỗi sợ hãi về những người bạn với cái bụng cổn cào xung quanh mình. Jerome xong bữa, đặt dĩa xuống và ngồi tựa vào ghế. “Hà, ngon ghê”.
Hắn vỗ cái bụng căng phồng. “Có thể nói lúc này tôi hoàn toàn vô lo, vô nghĩ và ở trong trạng thái thể chất hoàn toàn thoải mái. Tôi có thể bắt đầu học một thứ gì đó”… Hắn toe toét.
“Đúng vậy đấy”, vị giáo sĩ nói. “Chỉ khi cơ thể cậu thấy thư giãn, cậu mới có thể bắt đầu học được. Bước tiếp theo là gạt ra khỏi đầu óc mình tất cả những vấn đề hàng ngày và chỉ tập trung vào việc học”.
“OK, nhưng thầy đã chỉ cho tôi phải làm thế nào đâu Làm sao để có thể tập trung và bắt đầu học một thứ gì đó vừa khó vừa chán chứ? Như cái cuốn Shakespeare mà tôi nói lúc nãy ấy. Cậu nghĩ sao, Josik?”. Hắn quay sang cậu sinh viên – ngôi sao sáng của trường đạo. “Cậu có công thức nào hiệu quả không?”.
Schneiderman ngổi thẳng dậy và chỉnh trang lại chiếc mũ trên đầu. “Tốt nhất là cầu nguyện”, cậu nói và nhìn Jerome đầy hy vọng.
Jerome không nói gì nhưng trên mặt hắn lộ rõ vẻ giễu cợt. “Josik à”, hắn nói bằng giọng hơi kích động, “cậu vẫn không hiểu à? Tôí không phải là kiểu người thích cầu nguyện! Chúa có thể giúp cậu nhưng với tôi thì chẳng có ích lợi gì đâu. Cả đời tôi mới đến giáo đường có một lần. Đó là vào ngày lễ Sám hối. Tôi không nghĩ là trái tim của Người dành cho mình đâu. Hảng nghìn người đến giáo đường chăm chỉ hơn tôi nhiều nên chắc chắn là còn phải xếp hàng lâu mới đến lượt tôi”.
“Không phải thế đâu”, Schneiderman trả lời. “Không bao giờ là quá muộn cả”… Vị giáo sĩ nhẹ nhàng đặt tay lên cánh tay Schneiderman ý bảo cậu ta đừng nói nữa.
“Lời cầu nguyện giống như một câu thần chú, như cậu đã nói đấy”, ông nói. “Nếu ta tin vào Chúa, tức là ta đặt niềm tin vào một điều gì đó. Ta biết rằng minh không hề đơn độc. Nếu cậu không phải là một người mộ đạo thì những lời cầu nguyện vẫn có thể giúp cậu tập trung. Hãy cầu nguyện cho sức mạnh nội tại, niềm tin vào chính bản thân mình. Cầu nguyện là lời tuyên bố ý định của một người. Chẳng hạn, khi cậu nói, ‘Chúa cho con một trái tim trong sáng và một tinh thần mạnh mẽ’, tức là cậu khẳng định rằng, ‘ta tỉnh táo và đã sẵn sàng cho cuộc chiến’, – cuộc chiến với sách vở và việc học hành. Dù cậu không phải là một người có đức tin lớn lao đi chăng nữa thì khi nghe câu nói này, trong lòng cậu cũng trào lên một cảm xúc rất tích cực, đúng không?”.
“Được rổi, cứ cho là thế đi”.
“Mục đích của những lời cầu nguyện là giúp ta tập trung vào nhiệm vụ ở phía trước. Những lời cầu nguyện giúp chuyển toàn bộ sự chú ý từ những vấn đề khác vào nhiệm vụ ta chuẩn bị thực hiện. Những lời cầu nguyện nói với ta rằng: Đừng có ngồi đó mà mơ nữa! Sự tập trung này giúp ta tiêu hóa trong khi ăn, cải thiện khả năng nhận biết các sự vật xung quanh trong khi lái xe, còn liên quan đến chủ đề thảo luận của chúng ta thì nó giúp nâng cao hiệu quả học tập”.
“Cậu thường cầu nguyện những gì?”, Jerome hỏi cậu sinh viên.
“Đủ loại, như ‘Tình yêu vĩnh hằng’, ‘Chúa ban cho trái tim chúng con lòng thông cảm’ chẳng hạn”.
Jerome nhìn sang chúng tôi, có vẻ không thoái mái.
“Mỗi lần phải cầu nguyện, tôi cứ có cảm giác mình như một kẻ đạo đức giả vậy. Tôi chưa thực hiện được một điểu răn nào cho đầy đủ cả. Thế mà, tự nhiên tôi lại dám cầu xin Người giúp mình học tốt được hay sao? Như thế thì hơi to gan quá, mọi người có nghĩ vậy không?”.
“Cũng không hẳn thế”, Itamar trả lời. “Tin tớ đi, chắc chắn cậu xứng đáng được đấng linh thiêng giúp đỡ mà”, cậu ta mỉm cười.
Jerome ném cho cậu ta một cái nhìn đầy ngạc nhiên.
“Nghĩ mà xem. Cậu đã bao giờ giết người hay trộm cắp gì đâu”, Itamar giải thích. “Cậu luôn kính trọng cha mẹ, cậu cũng đã làm theo nhiều điều răn khác nữa, làm những việc tốt theo tiếng gọi của trái tim, những điều cậu cho là đúng đắn. Vậy nên, dù cậu không phải là người mộ đạo đi chăng nữa thì Chúa vẫn thấy cậu và nghe cậu nói. Ít nhất, tớ tin là Chúa làm vậy với tất cả những người tôn trọng những quy tắc hành vi cơ bản của con người”.
“Có một lần tớ đã chôm sôcôla ở cửa hàng”.
“Chẳng có gì to tát”.
“Và một lần tớ đã không trả lại tiền khi người ta đưa nhẩm tiền thừa”.
“Không sao”.
“Một lần tớ đã lái xe cán vào một con mèo”.
“Chuyện đó vẫn thường xảy ra mà”.
“Và một con chó nữa”.
“Chuyện cũng thường mà”.
“Và một con chim cánh cụt”.
“Cậu cán vào một con chim cánh cụt hả?”
“Có thể đó là một con chim áo dài, tớ cũng không nhớ rõ lắm”. Hắn cười. “Cậu có biết con chim đó không, Josik?”.
“Dù sao”, Itamar nói tiếp, phớt lờ Jerome, “cậu có thể tự nghĩ ra lời cầu nguyện hoặc câu thần chú của chính mình, một câu mà cậu thực sự tin rằng sẽ mang đến cho cậu niềm vui, sự hứng khởi và động cơ để bắt đầu thực hiện kế hoạch cậu đã vạch ra. Nó sẽ giúp cậu đi đúng hướng. Cứ thử mà xem”.
Jerome cười một mình và nhìn lên trời, hình như hắn đang nghĩ về điều gì đó, “Hay đấy”, hắn nói. “Tớ sẽ nghĩ về điều này”.
“Còn một chuyện nữa”, vị giáo sĩ nói thêm. “Có thể các cậu đã để ý thấy rằng những người Do Thái sùng đạo thường viết hai chữ cái ‘B”H’ ở đầu trang”.
“B’ezrat Hashem – có nghĩa là ‘với sự giúp đỡ của Chúa’”, Jerome chứng tỏ học vấn uyên bác của hắn.
“Đây cũng là một hình thức tuyên bố ý định”, vị giáo sĩ cho chúng tôi xem trang giấy của chính ông, “Khi ta viết chữ B”H lên trang giấy, ta thực sự chuẩn bị tinh thần để làm một việc thật quan trọng, thiêng liêng và để làm việc đó, ta phải dành hết sức mình. Để cầu xin sự giúp đỡ của Chúa, ta không thể làm qua loa, đại khái được, đúng không? Chữ B”H ở đầu trang giấy đặt ra cho ta một trách nhiệm phải tập trung và đạt được kết quả tốt nhất bởi vì trong nhiệm vụ ta đặt ra cho mình có sự hiện diện của Người. Trên một trang giấy như thế, ta sẽ không thể cho phép mình viết những lời gian dối hay những thứ vớ vẩn được. Chỉ có sự thật, những điều quan trọng và có mục đích cụ thể”. “Thật thú vị”, Itamar thốt lên. “Khi ghi chép bài học, hãy viết lên đầu trang giấy từ B”H hoặc là một điều gì đó có đủ trọng lượng khiến ta phải có trách nhiệm làm tốt hơn. Bằng cách này, ta sẽ ghi chép được những điều hữu ích nhất”.
“Đó cũng là một ý tưởng rất hay”, Jerome nhận xét.
“Vậy thì cứ thế mà làm đi”, vị giáo sĩ nói. “Cậu thấy thoải mái, cậu đã cầu nguyện và cậu đã viết B”H lên đầu trang. Bây giờ cậu cần phải bắt đầu ngồi đọc và học thôi”.
“Tuyệt! Tôi sẽ mở cuốn sách chán ngắt đó ra, đọc được nửa trang và ngủ luôn”. Hắn đặt hai tay lên bàn, ngả đầu tựa vào đó, nhắm mắt lại vờ như đang ngủ.
Schneiderman phá lên cười trước màn biểu diễn nho nhỏ của Jerome. “Không nhanh thế đâu”, vị giáo sĩ cười. “Cậu sẽ không bắt đầu bằng một cuốn sách nhàm chán!”.
“Sao lại không?”.