ĐẠO VỚI NHÂN SINH HÀNH VI

Trích “Lịch Sử Triết Học Phương Đông”; NXB Tp.HCM, 2001

29/10/2025
21 lượt xem

Khi Lão Tử than rằng:

“Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành, thiên hạ nạc năng tri, mạc năng hành. (203)

=Lời nói của ta rất giản dị dễ hiểu, dễ thực hành, mà trong thiên hạ chẳng ai có thể biết được, chẳng ai có thể làm được”.

Như thế đủ tỏ Lão Tử cũng như Khổng Tử không được thời đại hưởng ứng lắm. Bởi vậy ông chuyên chú vạch sự lầm lạc của thời đại, của các nhà cầm quyền cũng như của giới trí thức và khuyên họ nên trở về sống theo Đạo.

Căn cứ vào quan sát vạn vật trong Trời Đất, Lão Tử rút ra một định luật biện chứng của thực tại, sự vật biến đổi theo quan hệ hỗ động, sinh khắc, chế hóa Âm Dương. Cũng như khí dương tích cực và hoạt động, theo định luật ấy sẽ biến sang Âm khí thụ động và nhu thuận, thì hạnh phúc cũng chứa sẵn bên trong cái mầm của tai họa:

“Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục. (204)

= Họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ ngầm chứa của họa.”

Cho nên sự tìm kiếm hạnh phúc trần tục xô đẩy người ta vào lòng tham và đáy của cải, danh vọng và bạo động, kiêu sa và ích kỷ, mà lãng quên định luật phản phục đanh thép của Trời Đất, hễ lớn mạnh thì đến già yếu, đấy gọi là không phải Đạo, không phải Đạo thì sớm hết.

“Vật tráng tắc lão, vị chi bất đạo, bất đạo tảo dĩ”. (205)

Thánh nhân biết rằng nếu theo Đạo của người mà trái với Đạo Trời thì sẽ đi đến chỗ sớm hết, cho nên bỏ cái quá đáng, bỏ cái xa hoa, bỏ cái thái quá.

“Thánh nhân khứ thậm, khứ sa, khứ thái”. (206)

Thánh nhân lấy tư tưởng “kiến tố bão phác = Thấy cái nguyên tố, ôm lấy cái thuần phác”. làm cứu cánh của sự sống bằng cách “Thiểu tư quả dục = Ít cái tự kỷ đi và ít cái tham muốn đi”. Vì thánh nhân chỉ “quí thực mẫu = quí trọng sống trong nguồn sống âu yếm của Mẹ” mà thôi. Do đấy mà có mấy phương châm thực hành như sau:

  1. Biết Tri Túc

“Tri túc bất nhục, trị chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu. (207)

Lão Tử nói: Biết đủ thì không nhục, biết ngừng thì không nguy, có thể lấy làm lâu dài”.

Và không có họa lớn nào hơn là không biết tri túc, không có cái nguy lớn nào hơn là muốn được, cho nên biết đủ của cái tri túc thì luôn luôn đủ vậy “Họa mạc đại ư bất tri túc, cửu mạc đại dục đắc, cố tri túc chi túc thường túc hỹ”.

Sở dĩ cái sự biết đủ thì luôn luôn đủ như thế là vì đấy bí quyết của quân bình trong trường vận động lưu hành của các thế lực tự nhiên trong trời đất. Đạo trời bớt cái thừa mà bù chỗ không đủ.

“Thiên chỉ đạo tổn hữu dư, nhi bổ bất túc” (208)

Còn đạo của người thì trái lại, không như thế cho nên trong nhân loại hay mất quân bình vậy.

  1. Không cạnh tranh và bất bạo động.

Bởi lý do trên đây mà Lão Tử khuyên người ta không nên đua tranh, không nên bạo động, vì cạnh tranh gây thù oán, bạo động sẽ chết bất đắc kỳ tử. Vẫn theo cái luật thừa trừ tự nhiên, kẻ nào bớt đi, nhún đi sẽ được tăng lên, kẻ nào đòi hơn, thêm mãi thì lại bị bớt đi. “Vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn”. Và kẻ nào thắng bằng gươm lại chết bằng gươm, kẻ hùng hổ thì chết bất đắc kỳ tử:

“Cường lương giả bất đắc kỳ tử” (209)

Cũng như câu cách ngôn phương Tây:

“Qui vainc par l’épée, meurt par l’épée.

= Thắng vì lưỡi kiếm, chết vì lưỡi kiếm”,

Cho nên Lão Tử hay lấy nước làm kiểu mẫu của cái đức thiện, của Đạo mà ví với cái đức hạnh của bậc thánh nhân của ông. Ông nói:

“Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, sử chúng nhân chi sở ố, cố ky ư đạo… Phù duy bất tranh, cố vô vưu. (210)

= Cái đức thiện tối cao cũng ví như nước, nước khéo làm lợi cho muôn vật mà không cạnh tranh, ở tại nơi mà mọi người ghét, cho nên gần với Đạo… Ôi ! chỉ không tranh nhau như nước, cho nên không lầm lỗi”

Bất tranh ở đây không phải hèn nhát chịu thua ví như nước rất nhu yếu mềm mại, không tranh mà có thể đánh đổ những vật kiên cố, cho nên Lão Tử bảo: “Bất tranh nhị thiện thắng = Không tranh mà khéo thắng”. Bởi vì trong thiên hạ không có gì nhu nhược hơn là nước mà phá cái khỏe cái rắn thì đều thắng hết cả không có gì thay nó được. Yếu mà thắng khỏe, mềm mà thắng cứng, trong thiên hạ ai mà chẳng biết, chẳng làm được:

“Thiên hạ mạc nhu nhược ư thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắn; kỳ vô dĩ dịch chi. Nhược chi thắng cường, nhu chi thắng cương, thiên hạ mạc bất tri, mạc năng hành” (221)

  1. Công thành thân thoái

– Đây là cái luân lý thực tế mà Trương Tử Phòng tức Trương Lương đã đem áp dụng với nhà Hán. Sau khi giúp nhà Hán thắng Tần Thủy Hoàng và Hạng Võ, đã trả thù được cái nhục nhã của tổ quốc rồi, ông không lưu luyến với triều đình mà xin thoái lui vào bóng tối sống đời ẩn dật để mong tránh được cái họa bất đắc kỳ tử của Hàn Tín vậy.

Lão Tử cho cái Đạo Trời lồng lộng vô tư, cho nên: “Công toại thân thoái thiên chi đạo”.

Sở dĩ vũ trụ tự nhiên này trường cửu và giữ được hòa điệu điều lý là vì nó vận động vô tư, cho nên người ta cũng nên lấy đấy làm gương mà bắt chước. Người bắt chước Đạo của Đất, Đất phỏng theo đường lối của Trời.

Trời phỏng theo đường lối của Đạo, Đạo tuân theo cái định luật Tự nhiên:

“Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (212)

Bởi vì tự nhiên vận hành theo cái chỉ định luật biện chứng mâu thuẫn hổ động nên trường cửu, cho nên không tư mà thực hiện được cái tư.

“Thiên trường địa cửu, thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh. Thị dĩ thánh nhân hậu kỳ thân nhi thần tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn, phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư (213).

= Trời dài, Đất lâu, Trời đất có thể dài lâu là vì không tự sinh, tự động với cái ý chí của mình, cho nên có thể sinh mãi không thôi. Vì thế mà thánh nhân muốn lâu dài thì cũng phải để cái thân mình về sau thì tự nhiên thân mình được ở trước tất cả, để thân mình ra ngoài công việc thì thân mình còn ở đấy, như thế mà không phải là vô tư sao? Vì vô tư như thế mà thành tựu được cái mình chân thật”.

Cái định luật vận hành biện chứng mâu thuẫn hỗ động ấy biểu thị ra tất cả vũ trụ. Chúng ta chỉ cần mở mắt ra nhìn thì thấy được ngay, ví như nước kia nuôi sống tất cả tràn ngập trên mặt đất không kể công hay tự hữu gì hết. Cái đạo lớn ấy cũng giống như nước vậy.

“Đại Đạo phiếm hề, kỳ khả tả hữu, vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất tử, công thành bất danh, hữu y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ, thường vô dục, chỉ khả danh ư tiểu, vạn vật qui yên nhi bất vị chủ. Khả danh vi đại. Dĩ kỳ chung bất tự vị đại, cố năng thành kỳ đại. (214)

= Đạo lớn tràn ngập khắp cả chung quanh ta, vạn vật nương vào đấy mà sinh sống và nó không từ cái này. Công thành rồi mà không có tên tuổi, nước mặc nuôi cho vạn vật mà không cậy làm chủ muôn vật. Vì thường thường không có tham muốn có thể gọi là nhỏ. Muôn vật trở về đấy mà không cậy mình là chủ, thì có thể gọi là lớn. Bởi vì sau cùng không tự cho mình là lớn, cho nên thành tựu được cái lớn của mình.

Đấy là phương châm luân lý ứng dụng để thành tựu cái “mình lớn” lâu dài, ấy là không chấp vào cái lớn lâu dài của hình danh biểu hiện mà bắt chước cái vô vi của thực thể ở trên hình danh vậy.

  1. Dĩ đức báo oán

Từ những phương châm luân lý ứng dụng Lão Tử đi đến cái giá trị tiêu chuẩn của nhân sinh lý tưởng là lấy Đức để báo oán.

Khổng Tử bảo lấy Đức báo oán thì lấy gì báo Đức, cho nên khuyên đệ tử lấy Đức báo Đức lấy Trực báo Oán, bởi vì quan niệm về Đạo của Khổng Nho là quan niệm hữu vi, vả lại Khổng Tử vốn trung thành với tinh thần truyền thống cho Đạo là đường ăn ở giữa người với người trong nhân quần xã hội. Còn Lão Tử quan niệm Đạo vô vi tuyệt đối là một nguyên lý đại đồng, ngoài danh từ ngôn ngữ trên hiện hữu tương đối, chỉ có thể lấy cái vô tư, vô dục để tích chứa cái đức là phương diện biểu hiện của Đạo thì mới hợp thể được với Đạo. Đạo ấy đã không biết thiên vị, chỉ biết nuôi nguồn sống tràn ngập mà không cậy mình, nhìn muôn vật với con mắt bình đẳng khách quan. Cho nên Lão Tử lấy tiêu chuẩn của giá trị nhân sinh là “Dĩ đức báo oán”.