CHÚNG TA NHẬN THỨC GÌ VỀ THỰC TẠI?

Trích: Những Nẻo Đường Chiêm Nghiệm, Đối Thoại Giữa Nhà Sư & Nhà Khoa học; Người dịch: Lê Trường Sơn; NXB. Hà Nội; Công ty CP Sách Thái Hà, 2023

16/11/2025
17 lượt xem

Liệu chúng ta có thể hiểu được thực tại theo đúng bản chất của nó? Ở mức độ nhận thức bình thường, các nhà thần kinh học và tư tưởng Phật giáo nói không: Chúng tôi không bao giờ ngừng giải thích các tín hiệu giác quan và xây dựng thực tại của “chúng tôi”. Vậy những lợi thế và bất lợi của sự diễn dịch này là gì? Với điều tra thực nghiệm và lý trí, điều đó có khả thi không để làm sáng tỏ bản chất thực sự của sự vật? Làm thế nào chúng ta thu lượm được kiến thức? Liệu có một thực tế khách quan độc lập với nhận thức của chúng ta? Cách tiếp cận của người trực tiếp trải nghiệm sẽ được phân biệt với cách tiếp cận của người quan sát bên ngoài. Bằng sự quán tưởng và sửa chữa những biến dạng của chúng ta về thực tại và khắc phục nguyên nhân của đau khổ, chúng ta có thể hoàn thiện chiếc kính hiển vi bên trong của mình hay không? 

Wolf: Cả hai truyền thống của chúng ta đều liên quan sâu sắc đến những câu hỏi về kiến thức hấp dẫn: Làm thế nào chúng ta có được kiến thức về thế giới, kiến thức này đáng tin cậy đến mức nào và liệu rằng nhận thức của chúng ta có phản ánh thực tế đúng như bản chất của nó không hay chúng ta chỉ nhận ra được kết quả của sự diễn dịch? Liệu có thể nhận ra bản chất thực sự của những thứ xung quanh chúng ta, hay chúng ta chỉ có quyền tiếp cận những gì mà chúng biểu hiện? Chúng ta có hai nguồn kiến thức khác nhau để sử dụng. Nguồn chính và quan trọng nhất là kinh nghiệm chủ quan của chúng ta bởi nó là kết quả của sự tự quán hoặc tương tác của ta với thế giới xung quanh. Nguồn thứ hai là khoa học, là cố gắng tìm hiểu thế giới và tình trạng của chúng ta bằng cách mở rộng các giác quan, áp dụng những công cụ lý luận thích hợp để diễn giải cho các hiện tượng được quan sát, phát triển các mô hình dự đoán và xác nhận những tiên đoán của ta thông qua thí nghiệm. Tuy nhiên, cả hai nguồn kiến thức trên đều bị giới hạn bởi khả năng nhận thức của bộ não. Chúng ta không thể biết được giới hạn nhận thức của mình ở đâu, mà chỉ có thể khẳng định rằng những giới hạn đó có khả năng tồn tại.

Hãy để tôi lấy một vài ví dụ để minh họa rằng tại sao tôi cho rằng đây là một kết luận không thể bỏ qua. Bộ não là sản phẩm của một quá trình tiến hóa, giống như mọi cơ quan khác và toàn bộ cơ thể người nói chung. Bên cạnh đó, bộ não cũng là sản phẩm của một trò chơi tiến hóa vô định, mà thông qua sự đa đạng và chọn lọc đã hình thành nên một thế hệ mới với các cơ quan đã được tối ưu hóa để tồn tại và sinh sôi. Như một hệ quả, những cơ quan này được thích nghi với thế giới mà chúng đã tiến hóa ở đó. Cuộc sống chỉ phát triển trong một phân khúc hẹp của thế giới như chúng ta đã biết: phạm vi vi mô. Các sinh vật nhỏ nhất có khả năng duy trì tính toàn vẹn cấu trúc và tự sinh sản chính nó, bao gồm những tập hợp các phân tử tương tác bị giới hạn bởi một màng và chỉ đo được vài micromet. VÍ dụ như là vi khuẩn. 

Tất cả những sinh vật đa bào, thực vật và động vật đạt đến kích cỡ trong phạm vi mét đều đã phát triển các cảm biến cho những tín hiệu có liên quan đến sự tồn tại và sinh sản của chúng. Theo đó, các cảm biến này chỉ phản ứng với một phạm vi hẹp của các tín hiệu có sẵn. Những thuật toán đã phát triển để đánh giá các tín hiệu được đăng ký đã thích nghi với những nhu cầu riêng của các sinh vật tương ứng. Do đó, chức năng nhận thức của các sinh vật là rất riêng và được điều chỉnh đến một phạm vi giới hạn của kích thước. Đối với con người chúng ta, đây là thế giới mà chúng ta có thể cảm nhận trực tiếp bằng năm giác quan của mình và có xu hướng đánh đồng với “thế giới bình thường”. Đây là kích thước mà trong đó các định luật vật lý cổ điển chiếm ưu thế, có lẽ là bởi chúng được phát hiện trước những định luật vật lý lượng tử. Và cũng là phân khúc của thế giới mà hệ thống thần kinh của chúng ta tạo ra những hành vi thích nghi tốt; các giác quan xác định những phạm trù về tri giác, và lý luận dẫn chúng ta đến những diễn giải hợp lý và hữu ích về bản chất của các đối tượng bên cạnh những quy luật chi phối tương tác của chúng. Nó xuất phát từ những cân nhắc mà hệ thống nhận thức của chúng ta có, với tất cả khả năng, chưa được tối ưu hóa để làm sáng tỏ bản chất thực sự của các hiện tượng nhận thức theo định nghĩa Kant. Immanuel Kant phân biệt giữa một giả thuyết Ding an sich – có nghĩa “điều trong chính nó”, hoặc bản chất của một đối tượng nhận thức không thể giảm thiểu hơn nữa với bất kỳ điều gì khác – và sự xuất hiện hiện tượng của đối tượng đó, điều có thể tiếp cận với các giác quan của chúng ta. Cơ quan cảm giác của chúng ta và các cấu trúc tế bào thần kinh sẽ đánh giá tín hiệu mà chúng đã phát triển để nắm bắt thông tin phù hợp cho sự sống còn và sinh sản bên cạnh việc tạo ra các phản ứng hành vi theo các trải nghiệm tự thân thực dụng phục vụ cho các chức năng này. Tính khách quan của nhận thức (tức là khả năng nhận ra giả thuyết Ding an sich) chưa bao giờ là một tiêu chí lựa chọn. Ngày nay, chúng ta biết rằng mình chỉ nhận thấy một phổ hẹp về các tính chất vật lý và hóa học của thế giới này. Chúng ta chỉ sử dụng một vài tín hiệu để xây dựng nhận thức của mình. Và trực giác ngây thơ của chúng ta sẽ là những thứ cung cấp cho chính ta một cái nhìn đầy đủ và mạch lạc về thế giới. Chúng ta tin tưởng những năng lực nhận thức của mình; chúng ta trải nghiệm những nhận thức như thực tế phản ảnh và không thể cảm thấy khác, Nói cách khác, nhận thức chủ đạo của chúng ta, cho dù được trung gian bởi nội tâm hoặc kinh nghiệm cảm giác, đều xuất hiện với chúng ta như là hiển nhiên. Chúng có trạng thái là chắc thật. 

Matthieu: Chúng ta tin rằng mình đã trải nghiệm thực tại như là chính nó, mà không nhận ra mình đã diễn giải và bóp méo nó đến bao nhiêu. Thật vậy, luôn tồn tại một khoảng cách giữa cách mà mọi thứ xuất hiện và bản chất của chúng. 

Wolf: Đúng. Chúng ta có nhiều ví dụ minh họa sự thích ứng có chọn lọc này trong nhận thức của mình đối với các hiện tượng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Một là chúng ta không có khả năng để phát triển một trực giác về các hiện tượng mà vật lý lượng tử quy định. Những điều kiện của vũ trụ vi mô này rất khó để chúng ta tưởng tượng. Điều tương tự cũng đúng với kích thước của vũ trụ và những động lực phi tuyến cao của các hệ thống phức tạp. Cả cảm biến và chức năng nhận thức của chúng ta đều không được điều chỉnh bằng cách tiến hóa để đối phó với những khía cạnh của thế giới bởi chúng không liên quan đến sự sống còn tại thời điểm mà nhận thức của chúng ta phát triển. 

Matthieu: Ví dụ, sẽ khá là khó khăn để tưởng tượng một thứ gì đó xuất hiện dưới dạng sóng, không thể hạn chế lan tỏa, hoặc một hạt siêu nhỏ lại có thể hạn chế. Tất cả tùy thuộc vào cách bạn nhìn vào nó. 

Wolf: Chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn với quy mô của vũ trụ. Hãy lấy thử thuyết tương đối: Các định kiến của chúng ta chống lại ý niệm rằng tọa độ của không gian và thời gian nên đan xen và là tương đối bởi trong thế giới trung mô, tức thế giới bình thường của chúng ta, chúng ta trải nghiệm không gian và thời gian như những chiều kích khác nhau và riêng biệt. Song điều thú vị là chúng ta vẫn có thể khám phá các chiều của thế giới mà mình không có khả năng tiếp cận được với nội tâm và cả kinh nghiệm của chính mình bằng cách sử dụng các dụng cụ như kính viễn vọng và kính hiển vi để mở rộng các cơ quan cảm giác và bổ sung khả năng nhận thức của chúng ta với sức mạnh phân tích và quy nạp của lý trí. Chúng ta đưa ra các suy luận, dự đoán và xác nhận chúng bằng thí nghiệm. Tuy nhiên, tất cả điều này xảy ra trong hệ thống lý luận khoa học khép kín, và không có gì đảm bảo rằng những hiểu biết thu được là không thể bác bỏ. 

Matthieu: Nhưng ở đây bạn chỉ đề cập đến một sự hiểu biết về thực tế dựa trên nhận thức thông thường của chúng ta. Khi Phật giáo nói về việc nắm bắt “thực tại như nó là”, thì không chỉ đề cập đến nhận thức đơn thuần mà là đánh giá logic về bản chất cuối cùng của thực tại. Nếu bạn hỏi rằng liệu thực tế có phải được tạo thành từ một tập hợp các thực thể tự chủ, tự tồn tại hay không và sau đó tiến hành một cuộc điều tra riêng biệt, hợp lý thì bạn sẽ đi đến kết luận rằng những gì dường như tồn tại như là những thực thể riêng biệt thực chất là một tập hợp các hiện tượng phụ thuộc lẫn nhau không có sự tồn tại của tự chủ nội tại. Tuy nhiên, ngay cả khi người ta hiểu những điều này về mặt tinh thân, thì cũng không có nghĩa các giác quan của một người sẽ cảm nhận được các hiện tượng bên ngoài như là chúng biểu hiện mà không có bất kỳ biến dạng nào. Thực ra, chính đức Phật đã dạy rằng: 

Mắt, tai và mũi không phải là những nhận thức có giá trị. 

Cũng tương tự như vậy với lưỡi và cơ thể. 

Nếu năng lực của các giác quan là hợp lệ, 

Thì con đường siêu phàm có thể làm được gì cho ai? 

Ở đây, “con đường siêu phàm” ám chỉ một cuộc điều tra riêng biệt về bản chất cuối cùng của thực tại. 

Wolf: Trước khi bình luận về những hiểu biết sâu sắc đạt được bằng cách suy ngẫm, tôi muốn đưa ra một vài nhận xét bổ sung về sự tiến hóa của hệ thống nhận thức chúng ta, đặc biệt là đối với quá trình chuyển đổi giữa tiến hóa sinh học và văn hóa. Các chức năng nhận thức cơ bản của chúng ta ban đầu được chọn lựa để giúp con người đối phó với các điều kiện của một thế giới tiền xã hội. Ở giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa sinh học, rất có khả năng tồn tại một số hợp tác giữa môi trường xã hội mới và bộ não của chúng ta, một sự hợp tác cung cấp cho bộ não những kỹ năng xã hội nhất định, ví dụ như khả năng nhận thức và diễn dịch các tín hiệu xã hội. Những khả năng này sau đó được bổ sung và hoàn thiện bằng cách sửa đổi biểu sinh của kiến trúc não, xảy ra trong quá trình phát triển của các cá nhân và được hướng dẫn bởi kinh nghiệm và giáo dục. 

Matthieu: Di truyền học đề cập đến thực tế là chúng ta thừa hưởng một bộ gen, nhưng sự biểu hiện của các gen này có thể được điều chỉnh bởi những ảnh hưởng mà chúng ta gặp phải trong suốt cuộc đời. Đây có thể là những ảnh hưởng bên ngoài như nhận được rất nhiều tình cảm hoặc bị lạm dụng; hay ảnh hưởng từ bên trong, chẳng hạn như chịu đựng lo lắng nghiêm trọng hoặc có một tâm trí thanh thản. Thậm chí một số điều chỉnh này có thể xảy ra từ khi ta còn là bào thai. Khi chuột mẹ mang thai tiếp xúc với căng thẳng mãn tính thì con cái của chúng cũng thay đổi cách phản ứng với căng thẳng và trở nên nhạy cảm hơn. Lý do là một số gen mã hóa protein liên quan đến hệ thống điều tiết căng thẳng sẽ bị điều chỉnh, nghĩa là chúng trở nên kém hoạt động hơn và tạo ra ít hơn hoặc không có protein nào được chúng mã hóa. Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng thiền định có ảnh hưởng đáng kể đến sự biểu hiện của một số gen, bao gồm cả những gen liên quan đến căng thẳng. 

Wolf: Vâng, những sửa đổi bổ sung của các chức năng não này là nguyên nhân của quá trình để lại dấu ấn và học tập. Chúng đóng vai trò là cơ chế truyền tải chính cho sự tiến hóa văn hóa xã hội. Do đó, bộ não của chúng ta là sản phẩm của cả tiến hóa sinh học lẫn sự phát triển về văn hóa. Và nó tồn tại trong hai chiều này. Thông qua sự phát triển văn hóa, những thực tại mà chúng ta đề cập đến – ví dụ như những thực thể phi vật chất, những hiện tượng tâm lý, tinh thần, tâm linh – ra đời. Những hiện tượng này xuất hiện trong thế giới là bởi những kỹ năng nhận thức đặc biệt của con người, cho phép chúng ta tạo ra các thực tại xã hội như niềm tin và những hệ thống giá trị. Những kỹ năng nhận thức ấy khái niệm hóa những gì chúng ta quan sát được ở bản thân và người khác như cảm xúc, niềm tin và thái độ. Nếu tất cả những hiện tượng này là cấu trúc của bộ não chúng ta – mà với tôi, đó là giả định rất có thể xảy ra – thì tình trạng bản thể học và mối quan hệ của chúng với “thực tại” nên là chủ thể đối với những giới hạn tương tự ràng buộc bộ não của chúng ta khi nói đến nhận thức bản chất sâu sắc của thế giới. Do đó, khả năng cần phải được xem xét không những chỉ là nhận thức, động lực và hành vi phản ứng của chúng ta; mà còn là cách ta suy luận và rút ra kết luận để thích nghi với các điều kiện cụ thể của thế giới mà chúng ta có liên quan, bao gồm cả thế giới của thực tại xã hội xuất hiện trong quá trình phát triển của văn hóa.