NARADA MAHA THERA
Trích: Đức Phật và Phật Pháp; Việt dịch: Phạm Kim Khánh; NXB. Tôn Giáo; 2014
Ít ai biết rằng sau khi đạt được Chánh đẳng Chánh giác, đức Phật đã trở thành thầy dạy dỗ chính cho con trai xưa kia của mình trong hầu hết quãng đời niên thiếu của con Ngài, kể từ khi La-hầu-la lên 7 tuổi, và Ngài đã là một người cha rất mực mô phạm. La-hầu-la đạt được giác ngộ viên mãn khi mới 20 tuổi. Vậy, ta hãy tự hỏi, đức Phật là một người cha như thế nào? Phương pháp dạy con của Ngài ra sao? Làm thế nào một Bậc giác ngộ trao truyền những giá trị tâm linh của mình cho con cái?
— ??? —
Rāhula (La Hầu La) là con duy nhất của Thái Tử Siddhattha và Công Chúa Yasodhārā. Ngài sanh ra đúng nhằm ngày mà Thái Tử Siddhattha quyết định thoát ly thế tục. Tin mừng Công chúa hạ sanh hoàng nam đến trong lúc Thái tử đang trầm tư chiêm nghiệm trong ngự uyển. Trái với lệ thường khi người ta có được đứa con đầu lòng, thái tử không quá đỗi vui mừng. Ngài than: “Rahu jato, bandhanam jatam!“, “Một ‘Rahu’ đã ra đời, lại thêm một trói buộc!” Do đó đức vua cha đặt tên cháu nội là Rāhula .
Rāhula trưởng thành trong cảnh không cha, được mẹ và ông nội nuôi dưỡng. Lúc Đức Phật trở về Kapilavatthu lần đầu tiên, Rāhula lên bảy. Vào ngày thứ bảy sau khi Đức Phật lưu lại quê nhà, Công chúa Yasodhārā mặc áo chỉnh tề cho con và chỉ Đức Phật, bảo con:
“Này con, nhìn xem kìa, vị sa môn đắp y vàng, trông như một vị Phạm Thiên giữa đám hai vạn tu sĩ! Ngài là cha của con và Ngài là một kho tàng vô giá, vô cùng vĩ đại. Từ ngày Ngài xuất gia, chúng ta chưa được gặp. Hãy chạy đến và xin Ngài trao lại cho con phần gia sản của con. Con nói như thế này: “Kính thưa cha, con là hoàng tử. Sau khi lên ngôi, con sẽ là một vị vua cai trị cả vương quốc. Hiện giờ con đang cần gia sản. Kính xin cha trao cho con, vì tài sản của cha tức là của con.”
Cậu bé ngây thơ Rāhula (La Hầu La) làm theo lời mẹ dạy, đến gần Đức Phật và, một cách vô cùng kính mến, bạch:
“Bạch Sa Môn, chỉ cái bóng của Ngài cũng làm cho con hết sức mát mẻ an vui.”
Khi độ ngọ xong, Đức Phật rời hoàng cung. Rāhula theo chân Ngài và bạch: “Xin Ngài trao gia tài cho con”. Và nói thêm nhiều chuyện nữa, nhưng không ai ngăn cản. Đức Phật cũng không cấm đi theo. Khi về đến ngự uyển là nơi Ngài lưu trú, Đức Phật nghĩ:
“Nó muốn gia tài của cha, nhưng tài sản trong thế gian quả thật đầy phiền não. Như Lai sẽ ban cho nó gia tài cao thượng gồm bảy phần mà Như Lai đã thâu đạt dưới cội bồ đề. Như Lai sẽ giúp cho nó trở thành sở hữu chủ của một gia tài siêu thế.”
Đức Phật gọi Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất), dạy làm lễ xuất gia cho Rāhula (La Hầu La).
Lúc ấy lên bảy, Rāhula thọ lễ xuất gia.
Khi nghe tin người cháu nội thân yêu xuất gia thì vua Suddhodana vô cùng sầu muộn. Ngài ngự giá đến gặp Đức Phật và từ tốn xin Phật từ rày về sau không ban truyền lễ xuất gia cho ai mà chưa được cha mẹ cho phép. Vua nói: “Khi Đức Thế Tôn lìa bỏ thế gian ra đi, Trẫm vô cùng đau xót. Rồi đến Nanda, và nay lại có trường hợp Rāhula. Tình thương của người cha mất con quả thật cũng dường như bị ai cắt da, xẻ thịt, cắt gân, cắt luôn cả xương, cả tủy. Xin Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh nguyện này, sẽ không ban hành lễ xuất gia cho một người con nào mà chưa được cha mẹ cho phép.”
Đức Phật sẵn sàng chấp thuận lời thỉnh cầu và ban hành thành luật.
Thật rất khó tưởng tượng một cậu bé có thể sống đời cao thượng theo bậc xuất gia. Nhưng Sa-di Rāhula (La Hầu La) vừa thông minh vừa đặc biệt biết vâng lời và tôn trọng giới luật lại rất chuyên cần tu học. Kinh sách ghi rằng, mỗi sáng Sa di dậy thật sớm, ra ngoài bốc lên tay một nắm cát, tung ra và nguyện: “Mong rằng ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu cát đây!”
Một trong những bài kinh đầu tiên mà Rāhula được nghe giảng là Ambalatthika Rahulovada Sutta, nhấn mạnh tầm quan trọng của hạnh chân thật.
Ngày kia, thấy Đức Phật từ xa đến, Sa-di Rāhula dọn dẹp chỗ ngồi và để sẵn nước cho Đức Phật rửa chân. Khi rửa xong, Đức Phật chừa lại một ít nước trong thau và hỏi:
“Rāhula, con thấy còn lại một chút nước trong thau không?”
– Bạch Đức Thế Tôn, dạ con thấy.
– Cùng thế ấy, Rāhula, đời Sa-di quả thật không có nghĩa lý gì nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.
Rồi Đức Phật tát hết nước trong thau ra và dạy:
“Đời Sa-di quả thật như bỏ đi, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.” Rồi Đức Phật lật úp cái thau xuống và dạy:
“Đời Sa-di quả thật bị đảo lộn, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.”
Cuối cùng Đức Phật lật trở lên và để ngay ngắn cái thau và dạy:
“Đời Sa-di quả thật trống không và vô vị, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.”
“Với người nói dối mà không biết hổ thẹn, Như Lai tuyên bố, không có điều tội lỗi xấu xa nào mà người ấy có thể không làm. Do đó, Rāhula, con phải cố gắng lập tâm quyết định: – Dầu trong lúc chơi đùa, tôi cũng không nói dối.”
Nhấn mạnh tầm quan trọng của hạnh chân thật bằng những thí dụ dễ hiểu, Đức Phật giải thích cho Sa-di Rāhula giá trị của sự suy luận và đức hạnh căn bản, với hình ảnh thông thường, trẻ con cũng có thể lãnh hội:
“Rāhula, cái gương để làm gì?”
“Bạch Đức Thế Tôn, để phản chiếu lại hình ảnh.”
“Cùng thế đó, Rāhula, trước khi hành động con phải dò xét, suy gẫm tận tường. Trước khi nói phải dò xét, suy gẫm. Trước khi nghĩ gì phải dò xét và suy gẫm tận tường.
“Bất luận điều gì con muốn làm (bằng thân), phải suy gẫm thế này: ‘Bây giờ, chính điều này mà ta muốn thực hiện bằng thân, hành động này có hại cho ta, hay có hại cho kẻ khác, hoặc có hại cho ta và cho kẻ khác’. Vậy thì hành động này là bất thiện, hành động này đem lại phiền não và đau khổ. Hành động như vậy, con phải tránh, không nên làm.
“Nếu đàng khác, khi suy luận, con nhận định rằng: ‘Bây giờ chính hành động này mà ta muốn thực hiện bằng thân, sẽ không có hại cho ta, không có hại cho ai khác, cũng không có hại cho ta và cho kẻ khác.’Như vậy, đó là hành động thiện, sẽ đem lại an vui và hạnh phúc. Hành động như thế con phải làm.”
Và Đức Phật dạy Sa-di Rāhula (La Hầu La) phải dùng trí suy luận trong lúc, và sau khi, làm điều gì.
“Trong khi đang làm điều chi bằng thân, con phải suy gẫm: ‘Bây giờ hoạt động này mà ta đang làm bằng thân, có hại cho ta không? Hoặc có hại cho kẻ khác không? Hoặc có hại cho ta và kẻ khác không?’
“Nếu khi suy luận, con nhận định rằng: ‘Bây giờ hành động này mà ta đang làm bằng thân, có hại cho chính ta, có hại cho kẻ khác, hoặc có hại cho ta và cho kẻ khác.’ Như vậy, đó là hành động bất thiện, sẽ đem lại phiền não và đau khổ. Con phải ngưng ngay, không tiếp tục hành động ấy nữa.
“Nếu, khi suy luận, con nhận định rằng: ‘Bây giờ hành động này mà ta đang làm bằng thân, không có hại cho chính ta, không có hại cho kẻ khác, cũng không có hại cho ta và cho kẻ khác.’ Như vậy, đó là hành động thiện, sẽ đem lại an vui và hạnh phúc. Hành động như thế, con phải lặp đi lặp lại nhiều lần.”
Và Đức Phật thêm:
“Nếu, khi suy luận, con nhận định rằng: ‘Bây giờ, hành động này mà ta đã làm là bất thiện.’ Con phải sám hối, phải nói với vị thầy tế độ hay với bậc thiện trí thức, hoặc với các đạo hữu trong Giáo Hội. Đã sám hối, con phải chừa trong tương lai, không nên tái phạm.”
Những lời khuyên dạy về hành động thiện, bất thiện, bằng khẩu và ý cũng giống như vậy.
Đức Phật giảng giải dông dài rằng muốn giữ tâm trong sạch, điều chánh yếu là phải luôn luôn suy luận, và Ngài kết thúc bài Pháp như sau :
“Như thế ấy con phải cố gắng luyện tập, luôn luôn suy gẫm tận tường để giữ trong sạch mọi hành động bằng thân, khẩu, ý.” Trong bộ Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm), có một chương đặc biệt ghi lại những lời Đức Phật dạy Sa-di Rāhula về đặc tướng vô thường của vạn pháp.
Vì Đại Đức Rāhula xuất gia lúc tuổi còn nhỏ nên Đức Phật năng chăm lo khuyên bảo và dẫn dắt Ngài trên con đường chân chính.
Kinh Sutta Nipata ghi chép rằng Đức Phật thường lặp đi nhắc lại Sa-di Rāhula bài kệ sau đây:
“Hãy từ bỏ dục lạc của ngũ trần – vừa êm dịu vừa đầy sức quyến rũ. Với Niềm Tin vững chắc, hãy từ bỏ gia đình để làm người chấm dứt mọi đau khổ.
Hãy tìm chỗ ở nơi xa xôi, ẩn dật, thanh vắng và an tĩnh.
Hãy tri túc trong sự độ thực.
Không luyến ái y, bát, những vật dụng cần thiết và chỗ ở.
Không nên trở lại thế gian này.
Hãy nghiêm trì giới luật và thu thúc lục căn.
Hãy thận trọng canh phòng nhục dục ngũ trần và hãy nhàm chán thế gian.
Hãy tránh xa những hào nhoáng bề ngoài của sự vật. Hãy trau dồi tâm nhất điểm và tĩnh lặng trong sạch. Hãy phát triển những gì không nuôi dưỡng lớp mặt bề ngoài. Hãy loại trừ tánh ngã mạn ngủ ngầm trong tâm. Khi tận diệt ngã mạn như vậy, con sẽ đi xuyên qua cuộc sống trong thanh bình an lạc tuyệt đối.”
Đến năm lên mười tám, nhân dịp một tư tưởng luyến ái phát sanh có liên quan đến thân hình đẹp đẽ của mình, Sa-di Rāhula (La Hầu La) lại được nghe một bài Pháp thâm diệu về sự phát triển tinh thần. Ngày nọ thầy Sa-di theo Đức Phật trì bình. Phong độ oai nghiêm quý trọng của hai vị tu sĩ xem tựa hồ như thớt ngự tượng dõng dạc cùng đi với tượng con quý phái, như thiên nga của đức vua dắt con lội trên mặt hồ trong cung điện, như hổ chúa oai phong và hùm con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng mã thượng và vương tôn, cả hai đều từ ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng dung nhan Đức Thế Tôn, Sa-di Rāhula (La Hầu La) nghĩ rằng: “Ta cũng đẹp đẽ như Đức Thế Tôn, cha ta. Thân hình của Đức Phật vô cùng đẹp đẽ và thân hình ta cũng vậy.”
Đức Phật đọc ngay tư tưởng bất thiện ấy. đang đi, Ngài dừng chân, quay lại dạy như sau:
“Bất luận hình dáng đẹp đẽ hay xấu xa, hay thế nào đi nữa, cũng phải được quan sát như vầy: Cái này không phải của ta (N’etam mama); cái này không phải là ta (N’eso’ham’ asami); cái này không phải là linh hồn của ta (Na me so atta)”
Thầy Rāhula cung kính bạch với Đức Phật có phải ta chỉ nên xem hình thể như thế ấy không. Đức Phật dạy rằng ta phải xem tất cả năm uẩn (khandha) như thế ấy.
Sau khi nghe lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, Thầy Rāhula xin phép không đi theo vào làng trì bình như mọi hôm. Thầy dừng lại dưới cội cây, ngồi tréo chân theo lối kiết già, thẳng mình và chú tâm hành thiền.
Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), thầy tế độ của Sa-di Rāhula (La Hầu La), lúc ấy không biết người đệ tử đang hành thiền về một đề mục mà Đức Phật vừa dạy, thấy thầy Rāhula ngồi kiết già dưới cội cây thì khuyên nên chú tâm về pháp niệm hơi thở (Anapana Sati).
Sa-di Rāhula lấy làm phân vân khó xử bởi vì Đức Phật dạy một đề mục và vị thầy tế độ lại dạy một đề mục hành thiền khác.
Thầy liền hành theo lời vị thầy tế độ, niệm hơi thở rồi sau đó, đến bạch với Đức Phật xin được giải thích về điểm này. Đức Phật dẫn giải lời Ngài đã khuyên dạy về đề mục sắc uẩn và các uẩn khác, rồi Ngài vắn tắt đề cập đến một vài đề mục hành thiền khác với công hiệu của mỗi đề mục như tạm thời chế ngự tâm bất thiện nào v.v… Sau cùng Ngài giải thích về pháp niệm hơi thở-vào, thở-ra (Anapana Sati).
Làm đúng theo lời dạy của Đức Phật, Sa Di Rāhula gia công chăm chú hành thiền và không bao lâu, khi nghe kinh Cula Rahulovada Sutta [19], đắc Quả A La Hán.
Mười bốn năm sau khi Đức Phật Thành Đạo, Sa Di Rāhula thọ cụ túc giới, xuất gia tỳ khưu. Ngài viên tịch trước Đức Phật và Đức Xá Lợi Phất. Đại Đức Rāhula nổi tiếng là người rất tôn trọng kỷ luật. Những vần thơ trong kinh Theragatha, phiên dịch sau đây, được xem là của Ngài:
“Ta được diễm phúc hai lần thọ hưởng phước báu và được bạn hữu gọi là ‘La Hầu La hữu phước’, vì là cả hai — con của Đức Phật và người đã Chứng Ngộ Chân Lý.
Thật vậy! (Ta) không còn trở lại nữa (trên thế gian).
A La Hán, ta xứng đáng nhận lãnh lòng tôn kính cúng dường của nhân loại.
Chúng sanh bị nhục dục ngũ trần làm mù quáng.
Những khát vọng của cơ thể vật chất bao trùm lên chúng sanh như một màng lưới kín mít.
Chúng sanh bị bao phủ trong tham ái, không khác nào cá nằm trong rọ.
Nhưng nay ta đã xoay lưng, không còn nghe tiếng gọi của ngũ trần.
Đã cắt đứt và phá vỡ mọi thằng thúc,
Đã tận diệt tham ái, bứng tận gốc rễ.
Giờ đây ta mát mẻ, thanh bình, an lạc.
Bao nhiêu lửa đã bị dập tắt.”