GIẢI THOÁT BẢN THÂN KHỎI ẢO TƯỞNG VÀ NHÌN THẤY SỰ KHÔN NGOAN
Trích: “Trái Tim Thông Tuệ”.
Tác giả: Jack Kornfield.
Việt dịch: Hạ Nhiên -Viết Hổ.
NXB Thế Giới – 2020.
Ảnh nguồn Internet.

—🌼🌸🌼—
Ảo tưởng hiểu lầm thế giới và quên mất chúng ta à ai Ảo tưởng sinh ra mọi trạng thái không lành mạnh. Hãy giải thoát bản thân khỏi ảo tưởng và nhìn thấy sự khôn ngoan.
🌸 SỰ LƠ ĐỄNH: CẤP ĐỘ ĐẦU TIÊN CỦA ẢO TƯỞNG.
Tâm lý học Phật giáo mô tả ba mức độ ảo tưởng trong cuộc sống của chúng ta. Đầu tiên là thiếu chú ý. Nếu không có sự chú ý, nó giống như thể bà phù thủy độc ác của phương Tây đã gieo hạt – giống hoa anh túc lên đất đai quê hương chúng ta và ta không chú ý mình đang ở đâu. Chúng ta có thể gọi điều này là cấp độ ảo giác quên lãng. Ảo giác quên lãng nảy sinh khi chúng ta không nhận thấy điều gì đang xảy ra, khi chúng ta lạc lối trong suy nghĩ, nửa thức nửa ngủ. Nó cũng giống như trải nghiệm lái xe đến một địa điểm, đỗ xe và nhận ra rằng mình không có chút ký ức nào về cả cuộc hành trình. Hoặc như một người bạn trong nhà hàng, sau khi đã đánh đổ một đĩa thức ăn đã nói “Tôi không biết ai vừa ăn hết nó!”.
Với ảo tưởng, chúng ta sống cuộc đời mình bằng chế độ lái máy bay tự động. Chúng ta đi bộ xuống phố và trở về nhà mà không cần ghi nhớ mình đang ở đâu và những gì đang xảy ra. Vào một ngày mưa bão, chúng ta bỏ lỡ những đám mây vụt qua, vết nước mưa bắn vào dưới chân chúng ta, và ánh sáng của cửa sổ lúc hoàng hôn. Chúng ta bỏ lỡ cái lấp lánh trong không trung vào một buổi sáng mùa xuân đầy nắng. Chúng ta thậm chí còn bỏ lỡ khuôn mặt của những người thân yêu của mình khi chúng ta về nhà.
Toàn bộ các giai đoạn sống của chúng ta biến mất trong trạng thái hôn mê của ảo tưởng. Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa của sự lơ đễnh kinh niên được nuôi dưỡng bằng tốc độ điên cuồng của cuộc sống hiện đại. Các trường học và nơi làm việc của chúng ta thúc đẩy ta đa nhiệm, và sự chú ý vụn vỡ của chúng ta trở nên vùn vụt, hời hợt. Bao quanh bởi các kích thích, chúng ta sẽ trở nên chán nản và bồn chồn, dễ bị nghiện nhiều thứ. Tác giả Anne Wilson Schaef chỉ ra rằng, “Vì lợi ích của xã hội tiêu dùng để thúc đẩy những điều này, làm chúng ta bận rộn với những điều chúng ta muốn, và giữ cho chúng ta hơi tê liệt và giống như Zombie”. Không may thay, điều thường được tâm lý học phương Tây chấp nhận là “bình thường” lại thực sự có nghĩa là chúng ta đang hoạt động với một cấp độ ảo giác đáng kể. Ảo tưởng này có thể xảy ra ngay cả khi bên ngoài chúng ta có vẻ thành công, sở hữu mọi thứ mà tiền bạc Có thể mang lại, trong khi vẫn đang trải nghiệm thiếu thốn bình an bên trong.
Luyện tập chánh niệm đánh thức chúng ta dậy từ trạng thái hôn mê của ảo tưởng. Chánh niệm nhấc chúng ta ra khỏi tưởng tượng để nhìn thấy một cách rõ ràng. Nếu không có chánh niệm, tâm trí ảo tưởng sẽ quen bám níu với những trải nghiệm dễ chịu và từ chối những trải nghiệm khó chịu. Khó thấy hơn, ảo tưởng bỏ qua trải nghiệm trung lập. Khi mọi thứ trung lập, chúng ta sẽ cảm thấy buồn chán và lơ mơ bởi vì văn hóa luôn bảo chúng ta hãy tìm kiếm các cấp độ kích thích cao. Vì vậy, chúng ta bỏ lỡ tính sống động đằng sau những trải nghiệm trung lập tạo nên phần lớn thời gian của mình. Tuy nhiên, khi sự chú ý của chúng ta phát triển, những gì có vẻ trung lập hoặc buồn tẻ trở nên đầy đủ với vẻ đẹp chưa từng thấy.
Thay vì cố gắng xua tan ảo tưởng, đầu tiên chúng ta chỉ cần đơn giản chú ý đến những lúc nó phát sinh, khi chúng ta đang ở chế độ tự động. Chúng ta có thể quan tâm đến việc thiếu nhận thức. Để làm điều này chúng ta có thể tìm kiếm các lĩnh vực vô thức nhất trong cuộc sống của mình. Chúng ta sẽ thấy ảo giác đến cùng với sự mất tập trung, tốc độ và nghiện ngập. Để ý đến ảo tưởng là một thử thách cho thói quen của chúng ta. Nhưng khi làm điều đó, chúng ta sẽ bắt đầu tỉnh dậy.
Buồn ngủ và uể oải cũng là triệu chứng của mức độ ảo tưởng đầu tiên. Trên mức độ sinh học, cơn buồn ngủ sẽ đến khi chúng ta mệt mỏi và cần tái tạo. Khi mọi người lần đầu đến với khóa tu, họ thường rơi vào giấc ngủ khoan khoái, kiệt quệ ngay sau khi bắt đầu thiền định. Là cơ hội ít nhất để bình tĩnh, cơ thể họ sẽ thể hiện nhu cầu của mình. Cơn buồn ngủ lành mạnh này là một hồi đáp tự nhiên và phải được trân trọng. Trong một số tu viện, giấc ngủ này được gọi là “niết bàn của người nghèo”. Nhưng vào những lúc khác, cơn buồn ngủ và sự uể oải chỉ đơn giản là ảo tưởng. Giống như tiệm thuốc phiện của tâm trí, nó mang đến một cảm giác quên lãng quyến rũ và chỉ không muốn thấy điều gì cả.
Trong một khóa thiền, tôi đã làm việc với Kyle là một doanh nhân, anh đã thuật lại rằng mọi lúc ngồi thiền anh sẽ trở nên buồn ngủ. Anh đã tham gia khóa tu được vài ngày và được nghỉ ngơi tốt, vì vậy đó không phải vì kiệt sức. Và mức năng lượng của anh ta dường như đủ mạnh để cân bằng sự tĩnh lặng ngày càng phát triển của anh. Tôi bắt đầu băn khoăn liệu cơn buồn ngủ của anh có đang hoạt động để che giấu trải nghiệm của anh hay không. Khi chúng tôi ngồi cùng nhau, tôi đã yêu cầu Kyle nhắm mắt lại và điều tra. Anh ngồi lặng lẽ một lúc, chú ý. Sau đó, khi cơn buồn ngủ của anh bắt đầu, tôi hỏi: “Anh có thể cảm thấy điều gì nếu không buồn ngủ?” Vài giây sau, anh giàn giụa nước mắt. Trạng thái buồn ngủ này đã che giấu một nỗi buồn to lớn – người yêu anh đã tự tử nhiều năm về trước, những cuộc đấu tranh và sự cô đơn của anh. Mọi ký ức buồn của Kyle chảy mạnh ra nhiều tầng lớp. Sự chú ý của anh đến ảo tưởng đã mở ra một mức độ buồn bã và đau đớn mà anh đã tránh né trong nhiều năm. Bởi vì không cho mình cảm thấy nỗi buồn đau đã mang theo, Kyle nói anh đã trải nghiệm cuộc sống như thể đang sống một nửa, sống chờ đợi. Sự uể oải đã khóa kín con đường đến với đau khổ khiến anh không thể cảm thấy trọn vẹn, hành động sáng tạo và yêu lại từ đầu.
Với chánh niệm, chúng ta có thể thức tỉnh từ ảo tưởng. Ngay cả quân đội Hoa Kỳ cũng đang sử dụng rèn luyện chánh niệm dựa trên các chương trình giảm căng thẳng của Jon Kabat-Zinn, vốn đã thành công rực rỡ tại các bệnh viện và doanh nghiệp. Một sĩ quan quân đội trẻ nóng tính và có tiền sử các vấn đề liên quan đến giận dữ và căng thẳng đã nhận lệnh của đại tá tham gia một lớp rèn luyện chánh niệm tám tuần để giảm thiểu mức độ căng thẳng của mình. Một ngày nọ, sau khi đã theo lớp học được vài tuần, anh dừng lại để mua đồ tạp hóa trên đường về nhà. Anh đang vội vàng và hơi bực tức như thường lệ. Khi anh đẩy xe ra tính tiền, những hàng người đang xếp hàng dài chờ đợi. Anh thấy người phụ nữ đứng trước mình chỉ có một món đồ nhưng không đứng trong hàng mua nhanh. Bà ta đang ẵm một em bé và nói chuyện với nhân viên thu ngân. Anh bắt đầu khó chịu. Bà ấy đang đứng sai hàng nói chuyện và bắt tất cả mọi người phải chờ đợi. Sau đó, bà chuyển em bé cho người thu ngân và người này đã dành một ít thời gian rù rì với đứa bé. Anh có thể cảm thấy cơn giận dữ của mình đang dâng lên. Nhưng bởi vì đang thực hành chánh niệm, anh bắt đầu nhận thức được sức nóng và sự căng thẳng trong cơ thể mình. Anh thể cảm nhận được nỗi đau đớn đó. Anh hít thở và thư giãn. Khi nhìn lên lần nữa anh thấy cậu bé đang mỉm cười. Khi đến quầy, anh nói, “Đó là một cậu bé dễ thương”. “Ồ, anh thích thằng bé hả?”, cô thu ngân đáp lời, “Đó là con của tôi. Cha nó làm việc trong không quân, nhưng anh ấy đã hy sinh vào mùa đông năm ngoái. Bây giờ tôi phải làm việc toàn thời gian. Mẹ tôi cố gắng mang con trai đến thăm tôi một hoặc hai lần một ngày để tôi có thể trông thấy nó”.
Khi sống trong ảo tưởng, chúng ta sẽ nhanh chóng phán xét những người khác. Chúng ta bỏ lỡ vẻ đẹp bên trong của họ. Chúng ta cũng bỏ lỡ nỗi đau của họ, và không thể hồi đáp họ bằng lòng từ bi. Với sự lơ đễnh, chúng ta bỏ lỡ bữa ăn trước mặt mình, cuộc diễu hành của khách qua đường, khung cảnh luôn thay đổi, và mối liên hệ cởi mở với thế giới.
🌸 ẢO TƯỞNG CỦA SỰ PHỦ NHẬN
Sâu sắc hơn lơ đễnh, chúng ta sẽ tìm thấy một dạng ảo tưởng thứ hai: sự phủ nhận. Phủ nhận phát sinh khi chúng ta không tin những gì đang thực sự ở trước mắt mình. Ở cấp độ cá nhân, chúng ta có thể phủ nhận các vấn đề trong công việc, những khó khăn trong hôn nhân, bệnh trầm cảm hoặc cơn nghiện của chúng ta, như thể sự phủ nhận sẽ làm cho chúng biến mất. Với sự phủ nhận, chúng ta có thể bắt đầu một mối ngoại tình và thực sự tin rằng sự lãng mạn say sưa sẽ kéo dài mãi mãi. Chúng ta có thể nghĩ rằng thị trường chứng khoán sẽ chỉ đi lên và không bao giờ đi xuống.
Nhiều người trong chúng ta đã học được cách phủ nhận từ sớm. Chúng ta được dạy phải phớt lờ những bí mật của gia đình. Mẹ tôi đã bào chữa cho những vết bầm tím của bà và cố gắng không cho khách khứa đến nhà chúng tôi để không ai có thể thấy cha tôi điên loạn đến thế nào. Khi phủ nhận, chúng ta sợ hãi phải nói sự thật với nhau. Tôi biết một cô bé mười hai tuổi sắp chết vì bệnh ung thư được cha mẹ mua cho một chiếc ván trượt mới nhân dịp Giáng sinh. Không phải họ đang cố gắng tiếp thêm hy vọng cho cô bé. Họ chỉ không thể đối mặt với thực tế rằng sau nhiều năm trượt tuyết cùng gia đình, cô bé sẽ không bao giờ trượt tuyết được nữa. Vì vậy, những người thường làm việc với trẻ em bị bệnh nói rằng bọn trẻ đều biết chúng sắp chết, nhưng chúng cố gắng bảo vệ cha mẹ mình khỏi sự thừa nhận này. Đây là một nhiệm vụ cô đơn. Khi ở bên những đứa trẻ đang hấp hối, tôi thường ngạc nhiên trước sự khôn ngoan và can đảm của chúng. Chúng là những người thầy cho người lớn yếu nhược, những người đang sống trong sự phủ nhận quanh mình.
Phủ nhận cũng có thể hoạt động trong tập thể. Tâm lý học Phật giáo đã giải thích cách toàn bộ xã hội vận động để dấy lên bạo lực bởi sự thiếu hiểu biết, phân biệt chủng tộc và khuấy động nỗi sợ hãi. Việc tuyên truyền quảng cáo và truyền hình tiêu dùng xung quanh chúng ta có thể cố tình thúc đẩy lo âu và củng cố những ảo tưởng chính trị và kinh tế của chúng ta. Các ảo tưởng tập thể có thể hoạt động nhiều năm trước khi chúng ta thức tỉnh về cái giá phải trả, tự hỏi mình vì sao hàng ngàn người đã đánh mất cuộc đời mình hay hàng tỷ đô-la đã bị tiêu pha dưới cái tên “vũ khí hủy diệt hàng loạt” không tồn tại.
Một cuộc dỡ bỏ phủ nhận phi thường đã diễn ra khi Xô Viết bắt đầu tan rã dưới thời Mikhail Gorbachev vào những năm 1980. Trước đây, chính quyền đã phủ nhận tất cả những hành vi sai lầm. Sách sử của họ nói rằng hàng triệu người đã bị sát hại trong các cuộc thanh trừng của Stalin, các nhà tù chính trị ở Siberia, và những thất bại nông nghiệp hàng loạt của tập thể chưa bao giờ xảy ra. Ngay cả những ảnh chụp cũng bị chỉnh sửa để xóa đi mọi dấu vết của những ủy viên đã bị “loại bỏ”. Sau đó vào năm 1988, ở đỉnh cao của sự cởi mở mới do Gorbachev thúc đẩy, Izvestia – tờ báo chính thức của chính phủ Liên Xô đã bố cáo trên trang nhất rằng chính phủ Liên Xô đã quyết định hủy bỏ bài thi lịch sử cuối kỳ cho năm mươi ba triệu sinh viên.
Chúng ta đều nhìn thấy cái giá cho sự phủ nhận của Liên minh Xô Viết. Thật không may, chúng ta cũng lại tiếp tục phủ nhận những cuộc khủng hoảng môi trường, sự gia tăng liên tục của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa dân tộc giả hiệu, và sự tham gia vào ngành công nghiệp vũ khí khổng lồ trên phạm vi toàn cầu. Trong quá trình tìm kiếm sự an toàn, bằng cách nào đó chúng ta phớt lờ đi thực tế rằng 10% ngân sách quân sự của thế giới là đủ để nuôi sống mọi người thiếu đói trên trái đất.
Đôi khi chúng ta có thể bám níu lấy ảo tưởng ngay cả khi đối mặt với nguy hiểm rõ ràng. Tôi thích câu chuyện về một người đàn ông đang lái xe xuống đường cao tốc khi anh nghe thấy tin báo động trên đài phát thanh, “Bất cứ ai đang lái xe về phía bắc trên Xa lộ Liên tiểu bang 187 đều phải cực kỳ thận trọng! Có một chiếc ô-tô đang chạy sai hướng trên xa lộ hai chiều”. Người đàn ông lườm qua kính chắn gió và lẩm bẩm, “Đâu phải chỉ một chiếc xe lái sai hướng. Có tới hàng trăm chiếc như vậy mà”.
Giống như việc rèn luyện chánh niệm, tâm lý học phương Tây đã tập trung vào việc giúp chúng ta nhìn xuyên qua mức độ trung cấp này của ảo tưởng. Trong phân tích và nhiều hình thức trị liệu khác, chúng ta liên tục đối đầu với sự phủ nhận của mình. Chúng ta được thăm dò, đặt câu hỏi, diễn giải và buộc phải đối mặt và cảm thấy những gì mình đã bỏ qua. Tôi có thể nhớ lúc ngồi cùng chuyên gia trị liệu đầu tiên của tôi, trò chuyện về một thách thức lớn trong mối quan hệ của tôi và việc sắp tới tôi chuyển đến một thành phố khác. Đột nhiên ông ấy ngắt lời tôi, “Bạn đang buồn phải không? Buồn và giận dữ”. Ngay lập tức tâm trí tôi chết lặng. Tôi đã choáng váng vì sự đơn giản của nó. Tôi bắt đầu khóc lóc, run rẩy và đối mặt Với sự thật khó khăn này. Tôi cần phải dừng câu chuyện của mình lại và bước ra khỏi sự phủ nhận.
Theo cùng cách đó, Ajahn Chah đã giúp học trò mình bằng cách chỉ ra sự phủ nhận. Với tôi thầy sẽ nói, “Này, hôm nay bạn không chú ý phải không?” Với John, “Này đằng ấy, bạn nghĩ bạn đang thiền, nhưng chúng tôi có thể nghe tiếng ban ngáy đấy”. Và với Prasert, “Bạn sợ những con ma ở gần lêu của bạn. Những thứ giống ma nhất mà tôi đã thấy là những ông sư Tây da trắng to bự này đây”. Ajahn Chah dành các bài thực hành thật đơn giản cho các tu sĩ bị ảo tưởng. Cứ như thể thấy muốn cắt ngang sự bối rối của họ với những từ ngữ đơn giản và chữ viết lớn, rõ ràng. Thầy cho họ những nghi thức đơn giản: “Thiền bốn lần một ngày và tập trung vào cơ thể của bạn” hoặc “Giữ áo choàng của bạn gọn gàng”. Thấy cũng đưa ra những hướng dẫn đơn giản cho tâm trí như: “Đừng tin vào sự nghi ngờ của bạn. Chỉ cần nói ‘Đây là sự nghi ngờ’”. Ajahn Chah đã nói, “Cơn giận thì dễ thấy, và lòng tham tinh tế hơn, nhưng ảo tưởng là cái khó nhất. Tất cả các trạng thái đi kèm đều mờ mịt, khó hiểu”. Thầy tiếp tục, “Hãy tìm kiếm những khoảnh khắc rõ ràng. Hãy giữ trải nghiệm của bạn, không phải những suy nghĩ khó hiểu. Hãy tìm hiểu sự khác biệt”. Thông qua rèn luyện, chúng tôi được dạy cách bước ra khỏi tâm trí lẫn lộn của mình.
🌸 NIỀM TIN SAI LẦM VỀ HIỆN TẠI
Mức độ ảo tưởng sâu sắc nhất được gọi là “niềm tin sai lầm về thực tại”. Mức độ này khó đối mặt nhất bởi vì nó đe dọa một số giả định yêu dấu nhất của chúng ta. Một cách cơ bản, chúng ta bị lừa dối về hạnh phúc, sự trường tồn và bản chất của con người chúng ta nghĩ là mình. Đầu tiên, hãy lấy ý tưởng của mình về hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều hiểu các các tiện nghi bên ngoài có thể mang đến niềm vui, sự an ủi và bảo vệ như thế nào. “Nếu những trải nghiệm này không dễ chịu” Đức Phật đã nói, “chúng ta sẽ không bị vướng vào”. Và trong khi chúng ta có thể tận hưởng những hình thức hạnh phúc này, chúng vẫn chưa đầy đủ. Phần khôn ngoan trong ta biết rằng chỉ một mình chúng không thể mang đến sự hoàn thiện. Tâm lý học Phật giáo khuyến khích chúng ta điều tra sự ảo tưởng này về hạnh phúc.
Một số trong những người giàu có và quyền lực nhất cũng trải nghiệm sự đau khổ khó bảo và nỗi buồn xé nát tâm can, trong khi những dân làng sống trong điều kiện cực kỳ nghèo khó lại có thể hạnh phúc đáng kinh ngạc. Hạnh phúc nằm bên trong chúng ta. Các nghiên cứu về trúng xổ số nhà nước cho thấy rằng sau khi nhận được tiền, hạnh phúc của người trúng tăng lên trong khoảng hai năm và sau đó nó thường trở về mức ban đầu. Nếu đã tương đối hạnh phúc rồi, chúng ta sẽ trở về trạng thái đó. Nếu chúng ta đã trầm cảm, sợ hãi hay khốn khổ, ngay cả sau khi thắng hàng triệu người trong cuộc xổ số, chúng ta cũng sẽ trở về trạng thái đó. Thậm chí đáng ngạc nhiên hơn là nghiên cứu về những người bị liệt, một trong những số phận tồi tệ nhất mà nhiều người có thể tưởng tượng. Sau một vài năm những người bị liệt chân hay bị liệt cả tay chân cũng trở về trạng thái hạnh phúc bình thường của họ.
Thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của mình không phải là con đường thực sự dẫn đến hạnh phúc. Hạnh phúc chân chính phát sinh từ các trạng thái tâm trí lành mạnh; nó là đứa con của một trái tim khôn ngoan và khoan dung. Một phụ nữ đã đến với thực hành Phật giáo sau khi bác sĩ của cô gọi đến nói rằng khối u trong ngực cô là ung thư và đã lan đến các hạch bạch huyết. Cô sẽ cần phải phẫu thuật và hóa trị liệu. Cô là nhân viên hành chính, hai người con của cô đã trưởng thành, còn chồng cô thì ủng hộ và đề nghị làm bất cứ điều gì cô cần. Trong và sau khi trị liệu, cô đã hỏi liệu căn bệnh và nỗi sợ chết có hủy hoại cuộc sống của mình hay không. Sau đó, cô nhận ra rằng mình vẫn có thể hạnh phúc dù thế nào đi nữa. Cô ấy là một người yêu thương nồng nhiệt, quý mến mọi người. Cô cũng có nhiều bạn bè. Trên thực tế, cô đã có những gì làm bản thân mình hạnh phúc. Không phải sự an ủi của cuộc đời đã khiến cô hạnh phúc, cũng không phải căn bệnh ung thư và quá trình điều trị khó khăn có thể phá hủy nó. Trái tim tốt lành của cô đã tạo ra sự khác biệt.
Trong nhận thức sai lầm về thực tế, ảo tưởng cơ bản thứ hai là sự vĩnh cửu. Ảo tưởng tin rằng chúng ta có thể dừng trải nghiệm lại. Nhưng cuộc sống không có gì vững chắc và vĩnh viễn. Tuổi thơ của chúng ta đâu? Những năm 1990 ở đâu? Năm ngoái, tháng trước, hôm qua đâu rồi? Đã đi mất. “Trải nghiệm chậm rãi đến từ sự trống rỗng cả ngày lẫn đêm” nhà thơ Rumi đã viết như vậy. Với ảo tưởng về sự vĩnh cửu, chúng ta nắm bắt các cảm xúc, trải nghiệm và con người như thể họ là của chúng ta. Chúng ta vật lộn để giữ lại thế giới, nhưng dù vậy ngày tháng của chúng ta cũng sẽ biến mất như ảo ảnh hay một giấc mơ.
Chúng ta chỉ có thể sống khôn ngoan khi chấp nhận thực tế của sự thay đổi. Tại tu viện của Ajahn Chah, vô thường và cái chết là trung tâm của hoạt động. Chúng tôi chủ ý suy niệm về sự thay đổi, tâm trạng, các mùa, khách tham quan đến và đi, sự lão hóa và sự chuyển động của hơi thở cho đến khi chúng ta có thể thấy cuộc đời như một con sông không thể nào ngăn lại. Thiền sư Shunryu Suzuki đã tóm tắt giáo lý Phật giáo trong cụm từ đơn giản này, “Không phải lúc nào cũng vậy”.
Phim hoạt hình yêu thích của tôi chiếu cảnh một gia đình Bedouin du hành bằng lạc đà xuyên qua một sa mạc rộng lớn. Người cha dẫn đầu trên con lạc đà lớn nhất, tiếp theo là người mẹ và sau đó là ba đứa con, mỗi người ngồi trên con lạc đà nhỏ hơn một chút. Người cha quay đầu lại để trả lời đứa con út: “Đừng hỏi liệu chúng ta có sắp tới nơi chưa. Chúng ta là những người du mục, con vừa lòng chưa nào!”.
Trong ảo tưởng của mình, ta quên mất rằng tất cả chúng ta đều là những người du mục. Chúng ta giả vờ rằng cơ thể mình sẽ trẻ mãi, con cái mình sẽ không lớn lên, vận mệnh mình sẽ được giữ gìn, hôn nhân mình sẽ không thay đổi. Tuy nhiên ngợi khen và đổ lỗi, được và mất, niềm vui và nỗi đau đớn, danh tiếng và tai tiếng vẫn dệt một loại sợi luôn thay đổi vào cuộc sống của chúng ta. Nietzsche nói, “Gọi một điều tốt đẹp không làm một ngày dài hơn khi ta cảm thấy nó tốt đẹp, và trên tất cả đó không phải là ngày trước đó – đó là cách duy nhất để giữ lại niềm vui thuần khiết”.
Để cắt đứt ảo tưởng, trong tu viện của Ajahn Chah, chúng tôi đã chiêm nghiệm một bản văn Phật giáo có thể làm hầu hết những người bình thường trắng bệch: “Có phải bạn chưa bao giờ thấy một người đàn ông hay người phụ nữ tám mươi, chín mươi tuổi yếu đuối với những bước lung lay, răng rụng, nhăn nheo, và tay chân đầy ghét bẩn? Và bạn chưa bao giờ có ý nghĩ rằng điều này sẽ xảy ra với bạn hay sao? Bạn chưa bao giờ thấy một người đàn ông hay đàn bà bị ốm nặng, ốm yếu và đau khổ được vài người nhấc lên và đặt xuống giường cạnh những người khác, và ý nghĩ đó có bao giờ đến với bạn chưa, rằng bạn cũng có thể bệnh hoạn như thế? Có phải bạn chưa bao giờ thấy xác chết của một người đàn ông hay đàn bà một hoặc hai ngày sau khi chết, sưng phồng lên, xanh đen thẫm, thối rữa, và ý nghĩ ấy không bao giờ đến với bạn ư, rằng bạn cũng sẽ chết, sẽ không thể nào thoát được?”.
Đây là những câu hỏi trực tiếp đáng ngạc nhiên. Chúng thách thức tính tự mãn của chúng ta; hướng dẫn chúng ta sống với sự khôn ngoan trong ánh sáng của cái chết. Tom đã tham gia thực hành Phật giáo trong nhiều năm khi anh ta đến khóa tu một lần nữa. Tom là kiểu ảo tưởng với khuynh hướng uể oải và tẻ nhạt, đôi khi cách rời. Khi tôi hướng dẫn anh tập trung sự chú ý của mình cẩn thận hơn vào cơ thể – bàn chân, cánh tay, bộ ngực – anh bắt đầu chú ý rằng mình đang lo lắng thế nào. Rồi ngay lập tức anh bắt đầu ám ảnh về vợ mình. Gần đây, cô đã được chẩn đoán mắc bệnh Parkinson, và Tom không biết phải phản hồi ra sao. Anh nói với tôi, “Từ khi có chẩn đoán, tôi thậm chí còn không biết mình cảm thấy gì”.
Tôi đề nghị anh ta viết một bức thư cho chính mình, cố gắng khớp lại bất cứ điều gì anh cảm nhận đang bị ẩn đi khỏi nhận thức bình thường của mình. Sau một ngày thiền định anh ấy bắt đầu viết về nỗi sợ cho vợ mình và tương lai của họ, sự bất an đang tiếp diễn ra của anh. Rồi anh nhớ lại sự bất an tương tự từ thời thơ ấu và cuộc hôn nhân đầu tiên của anh. Anh viết về việc đang run rẩy, giận dữ và bối rối. Khi đọc thư của mình cho tôi, anh ấy đã sống lại. Anh đã có thể cảm thấy sự rối loạn bên trong mình, biết trải nghiệm của chính mình với sự rõ ràng và trung thực lớn hơn.
Tom đã bắt đầu để bản thân tin vào nhận thức. Nhưng khi anh cởi mở, cảm giác đau khổ của anh cũng gia tăng. Những khó khăn của vợ anh, nỗi đau khổ của rất nhiều người khác đang bệnh tật và nỗi bất an đã trở nên rõ ràng với anh. Cường độ của nó đã tăng lên. Khi chúng tôi ngồi lại với nhau, tôi đã mời anh ta chấp nhận toàn bộ sự đau khổ trong gia đình và trên toàn thế giới và cho phép nó tăng cường, mở ra, thay đổi như nó đã làm. Ban đầu anh cảm thấy choáng ngợp. Anh khóc vì đau khổ và bệnh tật của tất cả chúng sinh. Cảm giác đau khổ lớn lên, trở nên nóng và đau đớn trong cơ thể và tâm trí anh, như thể anh là một ngọn lửa hay một ngôi sao. Anh biết rằng tất cả mọi người đều là một phần của ngọn lửa này. Và sau đó anh trải nghiệm ngôi sao ấy đang mở rộng vào không gian, cái mà anh gọi là sự trống rỗng rạng rỡ. Khuôn mặt anh dịu lại. Sự nhẹ nhõm vượt ra khỏi đau khổ. Một giọng nói trong tâm trí của anh đã nói, Bây giờ bạn đã sẵn sàng để tìm thấy sự an ủi của thế giới này trong chính bản thân đau khổ. Bạn được tự do để yêu thương.
Khi Tom hình dung ra vợ mình, một khoảng không rộng rãi và lòng tin tưởng mới đã cho anh cách để giữ cuộc chiến đấu của họ. với một trái tim khoan dung hơn. Từ bị cách rời, Tom đã trở thành một sự hiện diện yêu thương, rộng rãi. Khi anh về nhà, Tom trực tiếp hơn với vợ mình, ít sợ hãi hơn. Điều này cũng giúp cô ít sợ hãi hơn. Tom đã thường xuyên quay trở lại để tụ tập thiền định, để rộng rãi và cởi mở với từng giai đoạn mới của căn bệnh cô mang và cuộc sống của họ với nhau.
Ảo tưởng của chúng ta về hạnh phúc và sự vĩnh cửu được bắt nguồn từ ảo tưởng sâu sắc nhất trong tất cả các loại ảo tưởng, quên đi mình là ai. Khi quên mất bản chất thật của mình, chúng ta sẽ cảm thấy mình tách biệt, lạc lối trong một góc nhìn nhỏ hẹp, di chuyển như một con ngựa bị mù. Cũng cùng cách đó, chúng ta nắm bắt cơ thể của mình, chúng ta nắm bắt cảm xúc và suy nghĩ thoáng qua của mình và biến chúng thành nhận dạng cơ bản của chúng ta. Cũng như thiền định về lão hóa và thối rữa thách thức nhận thức của chúng ta về thân thể, giáo lý Phật giáo tiếp tục đào bới bất kỳ bám níu nào vào tâm trí, “Để nói rằng tâm trí, các trạng thái tâm trí, hay ý thức của tâm trí cấu thành nên bản ngã, một khẳng định như thế là vô căn cứ. Sẽ tốt hơn cho những người thiếu hiểu biết nếu chú ý đến việc thân thể được làm nên từ các yếu tố như bản ngã, chứ không phải là tâm trí. Cơ thể mặc dù thay đổi nhưng có thể tồn tại kéo dài nhiều năm, hoặc trong nhiều thập kỷ, nhưng thứ được gọi là tâm trí, suy nghĩ và trạng thái của ý thức, phát sinh liên tục ngày và đêm và cũng nhanh chóng biến mất. Vì vậy, bất cứ điều gì về cơ thể, cảm xúc, nhận thức, suy nghĩ, hoặc ý thức, quá khứ, hiện tại, hoặc tương lai, to lớn hoặc tinh tế, đều cần được nhìn thấy rõ ràng. Sự khôn ngoan cho rằng: điều này không thuộc về tôi, điều này không phải là tôi, đây không phải là bản thân tôi”.
Cùng với ảo giác, chúng ta đánh mất quan điểm, chúng ta bám víu, chúng ta quên đi bản chất thật sáng chói của chúng ta. Alan Watts gọi đây là điều cấm kỵ ngăn bạn biết mình là ai”.
—🌼🌸🌼—