NGUYỄN THẾ ĐĂNG
Trong bài Lên núi Bảo Đài của ngài có hai câu:
Muôn sự nước trôi nước
Trăm năm lòng nói lòng.
(Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm)
“Muôn sự” là muôn sự kiện của lịch sử đời ngài cũng như của lịch sử dân tộc. Chúng như những làn sóng nhấp nhô trên nước và lại tan vào dòng nước đang trôi. Lịch sử lại trở về Lịch Sử, nền tảng của chúng.
Trăm năm là câu chuyện của lòng ngài nói với lòng mình. Tất cả nằm trong “một lòng”, chữ thường được nói đến trong Cư Trần Lạc Đạo Phú. Trăm năm lòng nhủ lòng là trăm năm vẫn là lòng nói với lòng, tất cả nằm trong “một lòng” và là một lòng.
Nước trôi nước, lòng nói lòng đó là sự trở về liên tục trong mỗi bước ra đi. Trở về liên tục trong mỗi bước ra đi, đó là những vòng tròn tự đủ cho chính chúng, viên mãn trong mỗi giờ mỗi ngày.
Và vòng tròn lớn, tất cả cuộc đời ngài, cũng bắt đầu khép lại, ra đi là trở về.
***
Đây là những tháng ngày cuối cùng trong giai đoạn thứ tư của cuộc đời ngài.
“Năm Mậu Thân (1308), ngài lên am Tử Tiêu, giảng Truyền đăng lục cho Pháp Loa. Sau đó mọi người xuống núi, chỉ có đệ tử Bảo Sát ở lại hầu bên cạnh.
Thời gian này ngài đi khắp các ngọn núi, ở tại thạch thất. Bảo Sát thấy thế tâu rằng:
* Tôn đức tuổi đã khá cao mà cứ xông pha sương tuyết thì mạng mạch Phật pháp sẽ thế nào?
Thượng hoàng trả lời:
* Thời ta đã đến, ta muốn làm kế lâu dài.
Ngày mồng 5 tháng 10, người nhà công chúa Thiên Thụy lên núi tâu: Thiên Thụy đau nặng, mong gặp tôn đức để chết.
Thượng hoàng bùi ngùi nói: “Cũng là thời tiết mà thôi”. Đoạn ngài chống gậy xuống núi, chỉ đem theo một người hầu. Ngày mồng 10, ngài về đến kinh. Ngày 15 dặn dò các việc xong xuôi, ngài lại quay về núi. Ngủ đêm tại chùa Siêu Loại.
Sáng sớm hôm sau, ngài đi đến chùa làng Cổ Châu, tự tay đề bài kệ lên vách chùa:
Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân
(Số đời một hơi lặng
Tình trần hai biển trăng
Cung ma chi sá kể
Nước Phật vô cùng xuân.)
(Tam Tổ hành trạng)
Trong những ngày cuối cùng, Sơ tổ Trúc Lâm vẫn hoạt động, dạy đệ tử, thăm chị sắp mất là Thiên Thụy, và lại về núi Yên Tử.
Bài kệ đề trên vách chùa Cổ Châu nói lên sự tổng kết của một cuộc đời vinh quang, hiển hách. Cuộc đời trên trần thế này (thế số) với nhiều sự kiện, nhiều biến cố chỉ dài như một hơi thở, một hơi thở lặng im, không gây tiếng động.
Tình đối với cuộc đời, với lịch sử (thời tình) là hai con mắt như hai biển trăng. Đôi mắt hai biển trăng nói lên sự nhìn cuộc đời bằng tánh Không và tánh sáng.
Cung ma là những phiền não, lo toan, sơ sót chúng chỉ là chuyện nhỏ, không đáng kể.
Thế và thời, hai yếu tố không gian và thời gian tạo thành cuộc đời trần thế đã hoàn toàn tiêu dung vào tánh Không và tánh sáng.
Toàn bộ cuộc đời cá nhân, và người khác, và thế giới là một “nước Phật vô cùng xuân. Chữ “xuân” này được lập lại một cách trọn vẹn lần cuối cùng, mà lần đầu là “khuôn mặt chúa Xuân” chưa được khám phá lúc thiếu niên.
“Ngày 17, Thượng hoàng ngủ đêm ở chùa Sùng Nghiêm. Thái hậu Tuyên Từ mời đến am Bình Dương đãi chay. Ngài vui vẻ nói: “Đây là lần cúng dường sau chót.”
Ngày 18, ngài lại đi bộ tới chùa Tú Lâm trên núi An Sinh Kỳ Đặc. Tới đây ngài thấy nhức đầu, bèn gọi hai vị tỳ kheo Tử Doanh và Hoàn Trung bảo:
* Ta muốn lên núi Ngọa Vân mà chân không đủ sức leo, vậy làm thế nào?
Hai vị tỳ kheo thưa:
* Hai đệ tử có thể giúp ngài đi lên núi.
Đến am Ngọa Vân, ngài cám ơn hai vị sư và bảo: “Xuống núi gắng tu hành, chớ xem việc sống chết là chuyện chơi.”
Ngày 19, sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu gọi Bảo Sát về gấp. Ngày 20 Bảo Sát ra đi, đến suối Doanh thì thấy một đám mây đen bay từ núi Ngọa Vân qua tới Lỗi Sơn rồi sà xuống suối Doanh. Nước dâng cao mấy trượng, rồi lại hạ xuống. Chốc lát thấy hai đầu rồng lớn như hai đầu ngựa cất cao hơn một trượng, hai mắt sáng như sao, rồi vụt biến mất. Đêm ấy Bảo Sát ngủ qua đêm tại quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành.”
Một vị chứng ngộ cao cấp thì tâm vị ấy thông với trời, đất, người. Nói theo văn hóa Trung Hoa, Trời – Đất – Người đã hợp nhất nơi vị ấy. Thế nên khi vị ấy đi ra khỏi cuộc đời này thường có những hiện tượng vật lý, tâm lý và tâm linh xảy ra. Nếu đọc tiểu sử của các vị chứng ngộ đều có xảy ra những hiện tượng này, từ Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam… cho đến Ấn Độ, Tây Tạng, và có lẽ ở cả Tây phương nữa.
“Ngày 21, Bảo Sát đến núi Ngọa Vân. Thượng hoàng thấy đến, cười bảo:
Ta sắp đi đây, sao ngươi đến chậm thế?
Trong Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ, mau nêu ra đây.
Bảo Sát hỏi:
* Khi Mã Tổ bệnh, viện chủ hỏi: “Gần đây tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo: “Ngày thấy Phật, đêm thấy Phật”, ý chỉ thế nào?
Ngài lớn tiếng đáp:
* Ngũ đế, Tam hoàng là cái gì thế?
Bảo Sát lại hỏi:
* Chỉ như,
“Hoa rực rỡ hề gấm rực rỡ
Trúc đất Nam hề cây đất Bắc”
là thế nào?
Ngài nói:
* Mù mắt ngươi đi (hạt khước nễ nhãn)
Bảo Sát bèn thôi”.
“Ngày thấy Phật, đêm thấy Phật” là câu nói của Thiền sư Mã Tổ khi đệ tử hỏi về bệnh tình của ngài. Người có thể ngày đêm đều thấy Phật là người đã hoàn toàn thoát khỏi sanh tử: Nước Phật xuân vô cùng.
Câu trả lời của Tổ Trúc Lâm cũng có ý nghĩa như vậy.
Khi sư Bảo Sát dẫn lại câu nói của người xưa để nói lên cái thấy của sư, ngài nói một câu dập tắt mọi cái thấy theo duyên: “Mù mắt ngươi đi.”
“Sau đó mấy ngày liền, trời đất u ám, chim vượn hót kêu bị thiết.
Ngày mồng một tháng 11, vào lúc nửa đêm, trời trong sao sáng. Thượng hoàng hỏi Bảo Sát: “Bây giờ là giờ gì?” Bảo Sát trả lời: “Thưa, giờ Tý” Thượng hoàng đưa tay mở cửa sổ nhìn ra và nói: “Đây là giờ ta đi.”
Bảo Sát hỏi:
Tôn đức đi đến chỗ nào?
Thượng hoàng nói:
“Tất cả pháp không sanh
Tất cả pháp không diệt
Nếu thấu hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền”.
Làm gì có chuyện đến đi.
Bảo Sát đứng bên hỏi:
* Chỉ như khi không sanh không diệt thì thế nào?
Ngài liền lấy tay tát vào miệng Bảo Sát, nói:
* Chớ có nói mớ.
Nói xong, Thượng hoàng nằm theo thế sư tử và lặng lẽ ra đi.
Đến đêm mồng hai, Bảo Sát theo di chúc đem hỏa táng, thu được ngọc cốt có năm màu. Vua Anh Tông cùng triều thần rước ngọc cốt về thờ ở đức lăng và một phần để ở tháp vàng chùa Vân Yên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang, và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu đà Điều Ngự Giác Hoàng”.
Bốn câu của bài kệ trên ngài lấy từ kinh Hoa Nghiêm, phẩm Tu Di đảnh kệ tán.
Khi sống, ngài sống trong pháp thân, “tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không diệt.” Khi chết, ngài cũng chết trong pháp thân “tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không diệt.” Như vậy sống hay chết, “chư Phật thường hiện tiền.”
Cái thấy Phật này cùng với câu nói của Thiền sư Mã Tổ, “Ngày thấy Phật, đêm thấy Phật” không khác.
Đã sống trong “tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không diệt”, thì “làm gì có chuyện đến đi”, như ngài trả lời cho sư Bảo Sát.
Câu hỏi cuối cùng của sư Bảo Sát là: “Chỉ như khi không sanh không diệt thì thế nào?” Ý của sư Bảo Sát là có một nơi chốn nào, một sự thể gì không sanh không diệt riêng khác với nơi chốn, với sự thể sanh diệt của thế gian sanh tử đang thấy ở đây không?
Ngài Điều Ngự Giác Hoàng liền tát vào miệng sư mà nói: “Đừng có nói mớ.”
Sanh diệt đã không có thì tất cả là không sanh không diệt. Sanh diệt đã không có thì tất cả là pháp thân không sanh không diệt. Sanh tử đã không có thì tất cả là Niết bàn. Khi chư Phật thường hiện tiền thì làm gì có cái khác với Phật?
Nói cách khác, tất cả đều ở trong tánh giác và là tánh giác, không có cái gì ở ngoài và khác với tánh giác. Tất cả đều ở trong tánh Không và tánh sáng, tất cả đều là tánh Không và tánh sáng.
Ngài ra đi trong sự toàn thiện, viên mãn của bản tánh của tâm và bản tánh của mọi sự như vậy. Đời của ngài đã thể nhập, hòa tan vào Đạo.
Đến như chưa bao giờ từng đến, đi như chưa bao giờ đã đi, vì tất cả mọi sự đều ở trong và là pháp thân Phật.