HH. DALAI LAMA XIV
Trích: 365 Lời Khuyên Tâm Huyết Của Đức Đạt-lai Lạt-ma; Matthieu Ricard ghi chép và sắp đặt bản gốc; Hoàng Phong chuyển ngữ
?? 341
Thật vậy, không một chút nghi ngờ nào cả, đức tin luôn giữ một vai trò quan trọng trong tất cả các tôn giáo. Thế nhưng đức tin phải được thúc đẩy bởi các nguyên nhân chính đáng. Nagarjuna/Long Thụ (tiểu sử đã được nêu lên trong câu 52) triết gia nổi tiếng người Ấn thế kỷ thứ II, nói rằng sự hiểu biết và đức tin phải đi đôi với nhau, tay trong tay.
Thật vậy đối với Phật giáo, đức tin được xem là cội nguồn mang lại một sự hồi sinh cao đẹp, và sự hiểu biết là cội nguồn của sự Giác Ngộ (đức tin là nguồn sinh lực mang lại cho mình một cuộc sống cao cả và thánh thiện, sự hiểu biết tạo ra từ cuộc sống đó sẽ mang lại cho mình Trí Tuệ), thế nhưng Long Thụ cũng lưu ý rằng “đức tin phải bắt nguồn từ một sự hiểu biết sáng suốt”, nói một cách khác là phải hiểu được tại sao mình lại tin. “Đức tin” – trong nguyên bản là foi/faith – là một thuật ngữ đặc thù của các tín ngưỡng độc thân, và cũng là động cơ thúc đẩy chủ yếu của toàn bộ các tôn giáo đó. Thiếu đức tin thì các tôn giáo đó sẽ sụp đổ ngay. Do đó một trong các phép “tu tập” căn bản của các tôn giáo này là phải “bảo vệ” đức tin bên trong chính mình với bất cứ giá nào, đồng thời quảng bá và “ép buộc” người khác cũng phải tin theo “đức tin” của mình, bởi vì đó là một cách gián tiếp trấn an mình và củng cố “đức tin” bên trong chính mình.
Tiếc thay chính sự mong muốn đức tin đó phải được mọi người tin theo là nguyên nhân sâu xa nhất đưa đến các cuộc xung đột triền miên. Đối với Phật giáo, “đức tin” chỉ là sự “tin tưởng” vào tính cách ích lợi và thiết thực trong việc tu tập nhằm cải thiện chính mình, giúp mình ngày càng trở nên sáng suốt và đạo đức hơn. Sự “tin tưởng” đó không phản ảnh một hình thức “ngoan ngoãn” hay “thuần phục” nào cả, mà chỉ là một “phương tiện” mang lại cho mình nghị lực trong việc tu tập hầu khám phá ra “Sự Thật” về thế giới và con người của mình, nhằm giải thoát sự hiện hữu trói buộc này của mình ra khỏi cái thế giới đầy biến động và khổ đau đó. Đức Phật dạy rằng, phải mang “Sự Thật” đó ra để tự mình thử nghiệm, tương tự như người thợ kim hoàn thử vàng. “Sự Thật” hiện ra qua sự chứng nghiệm đó của mình chính là “Đức tin” trong Phật giáo.
??342
Đối với Phật giáo, đức tin gồm ba giai đoạn phát triển, tương quan với ba cấp bậc khác nhau: sự cảm hứng, niềm ước vọng và sự vững tin. Đức tin ở cấp bậc “cảm hứng” nói lên một sự thán phục mà mình cảm nhận được sau khi đọc một quyển sách giá trị, tiếp xúc với một người có một khả năng phi thường, hay được nghe nói chuyện về Đức Phật. Đức tin ở cấp bậc “ước vọng”, nói lên một sự mong muốn vượt cao hơn chính mình, có nghĩa là đạt được một sự hiểu biết và quán thấy sâu xa, hầu giúp mình trở thành tương tự như người mà mình ngưỡng mộ (một vị Bồ-tát hay một vị Phật chẳng hạn).
Hai thể loại đức tin này (cảm hứng và ước vọng) không được bền vững lắm vì không căn cứ vào một sự hiểu biết cụ thể nào cả. Trái lại đức tin dưới hình thức một sự “vững tin” được củng cố bởi một sự hiểu biết minh bạch về những gì mà mình mong muốn đạt được đều có thể trở thành sự thật. Thể loại đức tin này được dựa vào lý trí. Kinh sách cho biết Đức Phật từng căn dặn các đệ tử của mình không nên tin một cách mù quáng vào những điều Ngài nói, mà phải kiểm chứng các điều ấy tương tự như người thợ kim hoàn thử vàng bằng cách đập, nấu, kéo giãn.
??343
Sự sùng kính đôi khi rất phù du, trừ phi được khơi động thật vững chắc. Ở Tây Tạng cũng như tại một vài nước khác, một số người tu tập thường phát động được một sự sùng kính thật mạnh đối với thầy mình. Thế nhưng nếu vị này bất chợt qua đời thì sự sùng kính đó cũng sẽ tan biến theo, họ xem mọi sự đều chấm dứt, trung tâm mà trước đây họ từng được học hỏi vụt đóng cửa (đây là cách nói ẩn dụ, đồng hóa người thầy với một trung tâm giảng dạy). Thế nhưng trong thế giới của vô biên, dù người thầy vẫn còn đó bằng xương bằng thịt hay đã khuất, thì chẳng có gì thay đổi cả. Người thầy biểu trưng cho bản chất tối thượng của tâm thức, vì thế không gian không phải là một chướng ngại ngăn chặn được lòng từ bị của vị ấy.
Khi nào nhận thấy được kích thước vô biên đó nơi thầy mình, thì người đệ tử cũng sẽ không còn phát lộ những sự bám víu quá đáng vào hình tướng con người (tức là thân xác vật chất) của thầy mình nữa (Phật giáo Theravada gọi “thân hình tướng” là “Thân Vật Chất”/Rupakaya; Phật giáo Đại Thừa thì gọi là “Thọ Dụng Thân”/Sambhogakaya). Người đệ tử nên hiểu rằng dù đã rời bỏ lớp thân xác bên ngoài, thế nhưng bên trong bầu không gian của thân xác tối thượng (Phật giáo Theravada gọi là Thân Tâm Thần/Manomayakaya; Phật giáo Đại Thừa thì gọi là Thân Biến Hóa/Nirmanakaya), khả năng ban phúc (trong nguyên bản là chữ “benediction” là một thuật ngữ Tây phương thuộc các tín ngưỡng độc thần, thế nhưng trong Phật giáo cũng có khái niệm “ban phúc”, nhưng gọi bằng một thuật ngữ khác hơn đó là sự “hồi hướng” công đức của mình) và sự sinh động của vị thầy mình vẫn luôn ở bên cạnh mình (1).
(1) Trong Phật giáo Vajrayana/Kim Cương Thừa, một vị thầy đích thật và người đệ tử của mình luôn kết chặt với nhau, mục đích duy nhất của sự kết hợp đó là giúp người đệ tử khám phá ra bản thể đích thật của thầy mình. Trong quá trình kết nối đó, trước hết người đệ tử phải đặt hết lòng tin vào thầy mình, điều này sẽ giúp mình đón nhận một hiện thực mới sâu xa hơn chính mình, và đồng thời người thầy, qua lòng tin đó của người đệ tử, cũng sẽ giúp cho tâm thức người này trở nên già dặn hơn. Sau khi người thầy và người đệ tử cùng nhau đi đến cuối con đường, thì cả hai sẽ trở thành một: Con người duy nhất đó (tức là thầy và đệ tử sau khi giúp nhau đi trọn con đường đã trở thành một “thực thể” duy nhất, mang một tâm thức duy nhất) sẽ khám phá ra bản thể đích thật của tâm thức của chính mình (tức là tâm thức chung của “thực thể” duy nhất đó), và bản thể đó cũng chẳng phải là gì khác hơn với “Thân tuyệt đối” của một vị Phật (“Thân tuyệt đối” còn gọi là Pháp Thân/Dharmakaya, mang bản chất trống không tuyệt đối của sự Giác Ngộ), nói một cách khác là sự Hiểu Biết (Trí Tuệ) và lòng Từ Bi, hiện hữu từ khởi thủy của thời gian. Đấy là lý do cho thấy tại sao những người chỉ biết bám víu vào hình tướng bên ngoài của thầy mình sẽ không bao giờ quán thấy được hiện thực đó (sự kết hợp giữa thấy và đệ tử tạo ra một hiện thực duy nhất và cũng là Pháp Thân của một vị Phật) mà chỉ thừa hưởng được những gì phát sinh qua trung gian của sự kết nối giữa mình với thầy mình như là một người bình dị mà thôi.
Trên đây là một trong số các phương tiện vô cùng “thiện xảo” của Phật giáo Tây Tạng, Tâm thức của người đệ tử phải kết hợp với tâm thức của người thầy hầu thừa hưởng những sự thành đạt sẵn có bên trong tâm thức của thầy mình, và đồng thời sự kết hợp đó cũng sẽ tạo ra cho mình một sức mạnh vô song trên đường tu tập. Thế nhưng trong hoàn cảnh ngày nay, khi xứ sở Tây Tạng đã bị xóa bỏ trên bản đồ thế giới, thì các vị thầy của quê hương đã mất đó đã phải lưu vong khắp nơi, vì thế không phải dễ cho chúng ta tìm được một vị thầy chân chính và cao thâm của một nền Phật giáo siêu việt.
Vậy chúng ta hãy thử hướng vào chính Đức Đạt-lai Lạt-ma như là vị Thầy của mình và sau đó là luôn nghĩ đến Ngài, đấy là cách mà mình mở rộng tâm thức mình để hòa nhập vào cả một “Đại dương Trí tuệ” bên trong tâm thức Ngài. Nếu duy trì được sự nối kết đó ngày càng khắng khít hơn thì mình cũng sẽ cảm thấy ngày càng gần gũi hơn với “Đại dương trí tuệ” đó của Ngài. Những ngọn sóng thật mặn của lòng từ bi và tình thương yêu rạt rào trong “Đại dương trí tuệ” đó sẽ tràn vào tâm hồn mình, và một lúc nào đó biết đâu mình cũng sẽ bất chợt cảm thấy những ngọn sóng đó dường như cũng đang trở thành những ngọn sóng của riêng mình, dấy lên từ một nơi thật sâu kín bên trong tâm thức của chính mình.
Thế nhưng, một ngày nào đó khi Đức Đạt-lai Lạt-ma quyết định rời bỏ Thân xác thụ hưởng/Sambhogakaya này của mình, thì không phải vì thế mà “Đại dương Trí Tuệ” mênh mông bên trong tâm thức Ngài cũng sẽ biến mất theo. Không gian vô biên và thời gian vô tận không thể ngăn chặn được những ngọn sóng dồn dập đó bên trong một tâm thức đã vượt thoát khỏi thế giới hiện tượng này.
Trở lại với thực tại ngày nay thì nếu không tìm được một vị thầy nào của một quê hương đã lùi dần vào lịch sử, thì cứ để cho những làn sóng của tâm thức mình lan vào tâm thức của Đức Đạt-lai Lạt-ma. “Đại dương trí tuệ” của Ngài rất rộng lớn và lúc nào cũng mở rộng để đón nhận những làn sóng đang dồn dập trong tâm hồn chúng ta.
??344
Khi người thầy rời bỏ thế giới này và nếu chúng ta nghĩ rằng sự sùng kính của mình cũng theo đó mà biến mất, thì sự sùng kính ấy cũng chỉ là một hình thức bám víu mà thôi. Đấy là cách mà mình xem người thầy mình như là một người bạn đồng hành, một người bình dị, một người phối ngẫu hay một người thân thuộc. Trong trường hợp đó, sự quá vãng của người thầy sẽ là một sự biến mất thật sự, và khi đó chúng ta sẽ không còn biết là phải xoay sở ra sao. Điều này cho thấy thật rõ ràng là các cảm nhận của chúng ta trước đây về thầy mình không phải là một sự sùng kính đích thật.