TÍNH TƯƠNG ĐỐI VÀ VẬT LÝ HỌC LƯỢNG TỬ

Trích: Vũ Trụ Trong Một Nguyên Tử; Việt dịch: Lê Tuyên; NXB Hồng Đức 2016.

12/09/2025
18 lượt xem


Người ta có thể đặt ra câu hỏi rằng có điều gì không ổn khi chúng ta đặt niềm tin tuyệt đối vào sự tồn tại cố hữu và phụ thuộc lẫn nhau của mọi đối tượng? Đối với tín đồ Phật giáo phái Đại thừa thì niềm tin này sẽ dẫn đến một số hậu quả tiêu cực nghiêm trọng. Tín đồ Phật giáo phái Đại thừa luôn quan niệm rằng chính niềm tin vào sự tồn tại cố hữu của mọi đối tượng sẽ khiến người ta gặt hái lối suy nghĩ sai lạc về sự tồn tại cố hữu của chính mình và mọi đối tượng quanh mình. Khi chúng ta luôn tin vào những phẩm chất hấp dẫn của một đối tượng nào đó, chúng ta sẽ phản ứng với đối tượng đó bằng lòng lưu luyến phụ thuộc sai lạc, trong khi chúng ta lại có ác cảm không đáng có với những đối tượng mà chúng ta cho rằng chúng không mang những phẩm chất cố hữu về sự hấp dẫn. Nói cách khác, tín đồ Phật giáo phái Đại thừa quan niệm rằng việc khăng khăng vào sự tồn tại độc lập cố hữu của mọi đối tượng sẽ dẫn đến những tai họa, và điều này theo lẽ dĩ nhiên sẽ dẫn đến những hành vi và những phản ứng mang tính phá hoại, và cả những đau khổ thực sự. Theo các tín đồ Phật giáo phái Đại thừa thì học thuyết về sự trống rỗng không phải là một vấn đề đơn giản về sự hiểu biết thực tại. Nó có những ngụ ý luân lý và tâm lý rất sâu sắc ẩn sau nó.

Một lần nọ tôi đã đặt ra cho một nhà khoa học, anh ta là một trong những người bạn của tôi với tên gọi là David Bohm, câu hỏi này: Xét ở góc độ khoa học hiện đại, chưa nói đến việc hiểu đúng hay hiểu sai, liệu có điều gì bất ổn nếu chúng ta tin vào sự tồn tại độc lập cố hữu của chính mình và của mọi đối tượng quanh mình? Anh ta trả lời rằng nếu chúng ta khảo sát nhiều học thuyết khác nhau có xu hướng chia rẽ con người, chẳng hạn như học thuyết về sự phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa cực đoan, học thuyết về đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác, thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng căn nguyên của các học thuyết này chính là xu hướng luôn cho rằng mọi đối tượng đều tồn tại cố hữu và hoàn toàn không có quan hệ gì với nhau. Từ quan niệm sai lầm này dẫn đến niềm tin rằng mỗi phân mảnh phân đoạn này chắc chắn luôn tồn tại độc lập và cố hữu. Câu trả lời của Bohm, đặt trên nền tảng là những hiểu biết về vật lý lượng tử của mình, một lần nữa cho chúng ta thấy sự quan tâm về mặt luân lý ẩn phía sau những quan niệm sai lầm đó, những quan niệm đã khiến các tín đồ Phật giáo phái Đại thừa từng lo lắng, triết lý Phật giáo phái Đại thừa đã được viết cách đây gần hai ngàn năm. Nói đúng ra, chúng ta phải công nhận là khoa học hoàn toàn chẳng liên quan gì đến những câu hỏi về vấn đề luân lý và những giá trị đạo đức, nhưng sự thật vẫn cứ là khoa học, là một trong những nỗ lực đạt được của nhân loại, thế nên nó vẫn luôn có liên hệ mật thiết đến vấn đề cơ bản về sự thịnh vượng của toàn nhân loại. Vì thế nên, xét một góc cạnh nào đó, chẳng có gì phải ngạc nhiên về thái độ phản ứng của Bohm trong câu hỏi trên. Tôi mong ước sao ngày càng có nhiều những nhà khoa học quan tâm nhiều hơn đến sự liên kết trong khoa học, những khái niệm khung sườn trong khoa học, và nhân loại.

Như tôi được biết, khoa học hiện đại đã phải đối mặt với khủng hoảng trong giai đoạn khởi đầu của thế kỷ hai mươi này. Vật lý cổ điển được phát triển bởi Isaac Newton, James Maxwell, và rất nhiều những nhà khoa học vĩ đại khác, vật lý cổ điển đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều những lời giải thích trong việc nhìn nhận những thực tại về thế giới này và những lời giải thích đó tỏ ra rất thuyết phục, thế nhưng mọi việc bị đảo lộn khi khoa học hiện đại lại có được những khám phá mới ở mức độ hạ nguyên tử (bên trong nguyên tử), những khám phá này được thực hiện trong cơ học lượng tử. Như Carl von Weizsacker một lần nọ đã giải thích với tôi, vật lý cổ điển thừa nhận một thế giới cơ học mà trong đó những nguyên lý vật lý vũ trụ nào đó, gồm có trọng lực và những nguyên lý cơ học, quyết định mô hình vận động của tự nhiên. Trong mô hình này, có bốn yếu tố khách quan – vật thể, lực, không gian và thời gian và luôn luôn tồn tại sự phân biệt rõ rệt giữa đối tượng khám phá và đối tượng được khám phá. Nhưng học thuyết tương đối và cơ học lượng tử, như lời Weizsacker đã nói, lại cho rằng chúng ta phải thủ tiêu sự phân biệt giữa đối tượng khám phá và đối tượng được khám phá, cùng tất cả những khẳng định đoan chắc của chúng ta về những dữ liệu có được qua kinh nghiệm của mình. Von Weizsacker tranh luận rằng chúng ta luôn luôn cần phải tìm hiểu mọi mối liên hệ trong thiên nhiên và tìm kiếm sự thông hiểu hoàn toàn về thực tại, về khoa học, và về vị trí của con người trong thế giới này.

Với ánh sáng của những khám phá hiện đại thuộc lĩnh vực khoa học, tôi cảm thấy rằng Phật giáo cũng phải sẵn lòng thích ứng hòa nhập cùng khoa học cơ bản về những học thuyết nguyên tử cổ điển của nó, mặc dù Phật giáo đã có sẵn những học thuyết đã được thiết lập từ rất lâu theo truyền thống. Ví dụ như, học thuyết của Phật giáo trước kia về nguyên tử, học thuyết này mãi cho đến nay vẫn chưa từng được xem xét lại hoặc được chỉnh lý, cho rằng mọi đối tượng đều được cấu thành bởi sự kết hợp của tám nhân tố cơ bản được gọi là nguyên tử: đất, nước, lửa, không khí, hình thái, mùi, vị, và sự cảm nhận. Nhân tố đất giúp duy trì, nước giúp cố kết, lửa giúp thăng hoa, và không khí giúp vận động. Một “nguyên tử” được xem là một hỗn hợp của tám nhân tố này, và dựa trên nền tảng là sự kết hợp của những nhân tố được gọi là “nguyên tử” này mà học thuyết Phật giáo giải thích sự tồn tại của mọi vật chất trong thế giới vĩ mô. Theo một trong những trường Phật học sơ khai nhất, trường Phật học Vaibhashika, thì những nhân tố “nguyên tử” này là những phần tử nhỏ nhất của mọi vật chất, chúng không thể phân chia được vì thế chúng không có những thành phần nhỏ hơn cấu thành. Khi những “nguyên tử” như thế kết hợp lại để hình thành nên đối tượng, các học thuyết Vaibhashika cho rằng các nguyên tử độc lập không hề chạm vào nhau. Những hỗ trợ từ nhân tố không khí và những ngoại lực khác trong thế giới tự nhiên giúp cho những nhân tố cơ bản kết hợp lại với nhau thành một tập hợp thống nhất.

Không cần phải nói, những học thuyết như thế chắc hẳn đã phát triển qua hệ thống những triết lý Ấn Độ khác nhau, đặc biệt là các hệ thống lý luận của Nyaya và Vaisheshika. Nếu chúng ta tìm hiểu các lý luận Ấn Độ từ xa xưa, chúng ta sẽ nhận ra một nền văn hóa thú vị tập hợp những tranh luận giữa những học giả theo những hệ thống lý luận khác nhau. Các trường học lý luận Ấn Độ – chẳng hạn như Phật giáo, Nyaya, Vaisheshika, Mimamsa, Samkhya, và Aidvaidavedanta – đều chia sẻ cùng những quan tâm và những phương thức phân tích lý luận giống nhau. Những tranh luận sôi nổi giữa các hệ tư tưởng là nhân tố chính góp phần tạo ra sự phát triển về sự hiểu biết của nhân loại trong nhiều lĩnh vực đời sống, trong suốt giai đoạn từ Phật giáo Ấn Độ sơ khai cho đến thời trung cổ và Tây Tạng hiện đại.

Theo tôi được biết thì học thuyết sơ khai nhất của Phật giáo nói về nguyên tử có lẽ là hai học thuyết Cốt lõi của những hiểu biết sâu xa và Học thuyết về những điều trừu tượng của Dharmashri. Học thuyết thứ nhất đã được các học giả hiện đại bổ sung thêm vào khoảng thế kỷ thứ II trước công nguyên mãi cho đến thế kỷ thứ I sau công nguyên. Mặc dù học thuyết này vẫn chưa bao giờ được dịch sang tiếng Tây Tạng, nhưng tôi được biết rằng các ấn bản bằng tiếng Trung Quốc đã được phát hành vào khoảng thế kỷ thứ III sau công nguyên. Học thuyết của Dharmashri thể hiện một nỗ lực công phu nhằm hệ thống hóa những quan điểm, những lập trường của các triết lý Phật giáo trước đó, vì thế nên hầu hết mọi ý tưởng cơ bản của học thuyết này đều mang đậm nét đặc trưng của những lý luận trước đó. Ngược lại, Học thuyết về những điều trừu tượng lại là một đề tài đa hợp, được ấn hành vào khoảng thời gian giữa thế kỷ thứ I và III sau công nguyên. Học thuyết này thiết lập được những giáo lý của các trường triết lý Phật giáo chính thống và đưa ra được những câu trả lời hợp lý với những lời phản bác lại những giáo lý này. Mặc dù phương thức lý luận của học thuyết này cũng tương tự như triết lý Phật giáo Tây Tạng, nhưng thực tế học thuyết này cho đến nay vẫn chưa được chuyển dịch hoàn toàn sang tiếng Tây Tạng.

Dựa trên nền tảng cơ bản là hai học thuyết này, đặc biệt là học thuyết thứ hai, Vasubandhu, một trong số những danh nhân vĩ đại của triết lý Phật giáo Tây Tạng, đã viết cuốn Kho tàng những kiến thức tối cao (Abhidharmakosha) vào thế kỷ thứ IV sau công nguyên, cuốn sách này đã nêu ra được những hình thức phân tích lý luận tinh vi hơn nữa. Nó trở thành một tác phẩm kinh điển nói về triết lý Phật giáo tại Tây Tạng; khi tôi còn là một chú tiểu nhỏ, tôi đã phải ghi nhớ những điều cơ bản trong cuốn sách nổi tiếng này của Vasubandhu.

Khi nói về sự kết hợp và sự tương quan của nguyên tử với những phần tử cốt lõi của chúng, triết lý Phật giáo đã đưa ra tất cả các hình thức lý luận tư biện. Thật thú vị là trong cuốn Kho tàng những kiến thức tối cao còn có những cuộc tranh biện về những đặc tính vật lý khác nhau của các “nguyên tử khác nhau. Người ta cho rằng hạt (phần tử) nhỏ nhất trong vật chất được cho là chỉ nhỏ bằng 1/2.400 kích cỡ của “nguyên tử”, và trong mọi đối tượng vật chất đều thế. Tôi cũng không biết làm thế nào mà Vasubandhu lại có thể tính đếm được việc này!

Trong khi chấp nhận học thuyết nguyên tử cơ bản, các trường Phật giáo khác đã đặt ra câu hỏi về khái niệm của sự phân chia nguyên tử. Một số học giả cũng đã nêu lên thắc mắc về bốn nhân tố dẫn xuất là hình thái, mùi, vị, và sự tiếp xúc trong vai trò là những thành phần cơ bản cấu thành mọi đối tượng. Ví dụ như, Vasubandhu rất nổi tiếng qua bài phê bình của mình về khái niệm về những nguyên tử khách quan không thể phân chia được. Nếu không phụ thuộc lẫn nhau mà các nguyên tử vẫn tồn tại, ông lý luận, vậy thì chúng ta cũng không thể nào mong đợi sự tự tồn tại tương thuộc của các đối tượng vật chất trong thế giới hàng ngày của chúng ta. Để có thể hiểu biết được điều này thì ắt hẳn phải có một lời giải thích về việc những nguyên tử đơn kết hợp lại với nhau như thế nào nhằm tạo ra các hệ thống phức hợp.

Nếu thực sự có sự kết hợp như thế, và ắt hẳn phải thế, thì chúng ta hãy hình dung một nguyên tử đơn được bao quanh bởi sáu nguyên tử khác, 4 nguyên tử nằm ở bốn phương chính (chính phương: Đông, Tây, Nam, Bắc), một nằm bên trên và một nằm bên dưới. Vậy thì chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: Liệu nguyên tử trung tâm có tiếp giáp với nguyên tử ở phương Đông có thể nào cũng tiếp giáp với nguyên tử ở phương Bắc không? Nếu không, vậy thì nguyên tử trung tâm ắt hẳn phải được tạo nên bởi nhiều phần tử cấu thành và thế nên xét về mặt lý thuyết thì ít ra nó vẫn có thể chia cắt ra được. Nguyên tử trung tâm có một phần tiếp xúc với nguyên tử ở phương Đông nhưng nó không tiếp xúc với nguyên tử ở phương Bắc. Nếu, ngược lại, phần ở phương Đông không tiếp xúc với nguyên tử ở phương Bắc, thì cũng không có gì có thể ngăn cản nó không chạm vào các nguyên tử ở tất cả các phương còn lại. Trong trường hợp đó, Vasubandhu lý luận rằng, các vị trí không gian của tất cả bảy nguyên tử này – nguyên tử trung tâm được bao quanh bởi sáu nguyên tử còn lại – sẽ giống y như nhau, và tất cả sẽ hòa vào nhau thành một nguyên tử duy nhất. Kết quả của ý tưởng này là, Vasubandhu lý luận, chúng ta không thể nào xác định được các đối tượng của thế giới vĩ mô qua việc kết hợp những đối tượng đơn lẻ lại với nhau, chẳng hạn như những nguyên tử không thể phân chia được.

Về cá nhân tôi, tôi vẫn chưa bao giờ hiểu được ý tưởng về những khái niệm như mùi, vị, và sự tiếp xúc trong vai trò là những phần tử cơ bản cấu thành các đối tượng vật chất. Tôi có thể hiểu được người ta làm thế nào để có thể phát triển được học thuyết nguyên tử về mọi đối tượng vật chất dựa trên nền tảng là bốn phần tử cơ bản này. Trong mọi tình huống, cảm xúc của tôi là tư tưởng Phật giáo này giờ đây cần phải được chỉnh sửa qua luồng sáng của khoa học hiện đại về vật lý chẳng hạn như khái niệm khoa học về hạt điện tử (electron) bao quanh một hạt nhân được cấu thành bởi proton (hạt cơ bản tích điện dương có ở trong nhân của các nguyên tử) và neutron (hạt cơ bản tích điện âm có ở trong nhân của các nguyên tử). Khi chúng ta lắng nghe sự mô tả về những thành phần nhỏ hơn nguyên tử, chẳng hạn như hạt quark (vi lượng) và hạt lepton (hạt cơ bản), trong khoa học vật lý hiện đại, thì rõ ràng là các học thuyết lý luận về nguyên tử của Phật giáo và khái niệm của Phật giáo về những thành phần nhỏ nhất không thể phân chia được trong vật chất là những mô hình cơ bản để phát triển nên vật lý hiện đại ngày nay.