VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SANH

NGUYỄN DU

Bài này còn gọi là "Văn chiêu hồn" hay "Văn tế chiêu hồn".

Nguồn: Văn tế cổ và kim, NXB. Văn hoá Hà Nội; 1960

Văn tế thập loại chúng sanh, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì thi hào Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, GS. Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).

Sách Từ điển văn học (bộ mới)[1] cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là GS. Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895 của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Từ hai bản này, Hoàng Xuân Hãn khảo chứng, hiệu đính kỹ lưỡng và đã đưa ra một văn bản khác có độ tin cậy cao hơn…

Văn tế thập loại chúng sinh là một bài văn khấn tế, đề cập đến xã hội hồn ma một cách thảm thương nhất. Đó là hình ảnh lộn trái của xã hội trần thế, song khác biệt cơ bản ở chỗ không có đối lập giàu nghèo, sang hèn. Chúng sinh ai cũng như ai cùng chịu cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn nên nhà thơ xót thương tất cả…[2]

Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo Đặng Thị Hảo, có thể chia bài văn thành bốn phần [3]

  • Phần một (20 câu): tả cảnh một chiều thu tháng Bảy mưa dầm buồn bã, khiến nhà thơ chạnh lòng thương đến các chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm mà lập đàn cầu siêu…
  • Phần hai (116 câu): nêu rõ tên và nguyên nhân thiệt mạng của mười loại cô hồn.
  • Phần ba (20 câu): miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các cô hồn.
  • Phần cuối (28 câu): lời thỉnh cầu phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các cô hồn tới nhận phần lễ cúng để lên đàng thăng thiên

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SANH

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt sương khô;
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuộm bạc, lá khô rụng vàng.

Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác sương sa;
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh;
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần nữa đêm đen;
Còn chi ai khá ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu.

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tĩnh đàn rưới hạt dương chi;
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Trí những lăm cướp gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng chi thất thế vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở,
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Lớn sang giàu nặng oán thù
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.

Nào có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế hằng nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi;
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo một đêm một rầu.

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản, Nhạc, lại ngày Y, Chu.

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh?

Kìa những kẻ bày binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn Nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Dãi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu trôi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết nơi chốn nào?

Trời xâm xẩm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.

Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng kiêng khem
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.

Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha hương
Gió trăng hiu hắt lửa thuơng lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín rạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khoa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe, cơm ống gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?

Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu lác một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sảy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người có đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ.

Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre,

Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền giũ sạch oán thù rửa trong.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ai lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.

— Nhân dịp Vu Lan, BBT gởi tặng bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh của Nguyễn Du, có thể dùng để tụng mở đầu Kinh Địa Tạng.

Chú Thích

1. Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 1972.T

2. Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1972-1973.

3. Từ điển Văn học (bộ mới), tr. 1972-1973. GS. Phạm Thế Ngũ chia bài văn làm 3 phần gồm phần 1 (20 câu đầu), phần 2 (137 câu) phần 3 (27 câu cuối).

Bình luận

[…] nguyên của người Hán (Trung Hoa) và cũng trùng hợp với ngày rằm tháng 7 “Xá tội vong nhân“ của phong tục Á Đông. Theo tín ngưỡng dân gian của người Việt, ngày […]


Bài viết liên quan

  1. LỄ THÁNG BẢY CHO NHỮNG OAN HỒN PHIÊU BẠT

Bài viết mới

  1. THỰC HÀNH BỒ ĐỀ TÂM
  2. LÒNG TỰ TRỌNG
  3. LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁT KHỞI LÒNG SÙNG MỘ