CHÁNH THỌ LÃO NHÂN

Trích: “ Cuộc Đời Bạch Ẩn Huệ Hạc”; Thuần Bạch và Ngọc Bảo dịch

17/04/2025
19 lượt xem

Trong một vùng xa xôi hẻo lánh, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài cũng như với thế giới của Thiền tông, có một am thất nhỏ xíu trong đó có một thiền sư sống ẩn dật. Vị ẩn sĩ này tên là Huệ Đoan Đạo Cảnh, nhưng vì am này tên là Chánh Thọ Am (Shoju-an) nên cũng được gọi là Chánh Thọ Lão Nhân. Chánh Thọ đúng là một minh sư mà từ lâu nay Bạch Ẩn đã tha thiết muốn tìm kiếm. Ngài có rất ít đệ tử, vì những người muốn được ngài thu nhận phải tỏ ra có một chí nguyện thật kiên cường, có đầy đủ bi trí dũng để có thể đạt đạo và nối tiếp sự nghiệp truyền pháp. Và đối với những đệ tử, Chánh Thọ lão sư cũng dùng những phương pháp huấn luyện thật gắt gao, thật khắc nghiệt đến tận cùng. Bạch Ẩn đã kể lại sau này rằng, cho tới khi gặp Chánh Thọ, ngài vẫn nghĩ rằng đạt đạo là chuyện tương đối dễ dàng. Nhưng những thôi thúc không ngừng của Chánh Thọ đã làm ý nghĩ đó tan biến ngay, như “cái vỏ trứng bị đập nát” vậy. Đông Lãnh, đệ tử của Bạch Ẩn, kể lại rằng thầy của ông khi ở với Chánh Thọ luôn luôn ở trong một tình trạng hãi hùng, “tay chân run cầm cập, toàn thân nổi da gà”. Có lần Chánh Thọ đã nắm lấy Bạch Ẩn và quăng ra ngoài hành lang rơi xuống đất, “như là quăng một con mèo con vậy.” Nhưng Chánh Thọ đã đưa cho Bạch Ẩn giải những công án thật khó khăn, mà khi tập trung nỗ lực cố thông qua, Bạch Ẩn đã có được những chứng ngộ sâu xa, và hiểu được tại sao thầy mình đã thúc ép như vậy.

Bạch Ẩn chỉ ở với Chánh Thọ trong tám tháng, nhưng đó chính là thời gian quan trọng nhất trong đời Sư; tám tháng ấy đã tạo dựng nên căn bản cho sự giác ngộ viên thông lý và sự mà sau này Sư đã hành trì và tuyên giảng cho đến hết cuộc đời.

Trong bản tự truyện “Trường Sinh Thảo”, Bạch Ẩn đã kể lại như sau về cuộc gặp gỡ của Sư và Chánh Thọ đại sư:

“Khi chúng tôi đến am Chánh Thọ, tôi được thu nhận ngay vào làm đệ tử, và được treo gậy ở đó.

“Một lần, sau khi tôi đã trình lên sự hiểu biết của mình với lão sư, ngài nói: ‘Chí nguyện muốn học Thiền phải thật chân thành. Ngươi nghĩ gì về công án Con chó có Phật tánh hay không?’

– Không có cách gì để tay hay để chân lên đó được.

Tôi trả lời.

“Đột nhiên, thầy giơ tay ra nắm mũi tôi. Nhéo một cái thật mạnh, nói: ‘Ta để tay thật chặt ở đấy đấy!’

“Tôi ngồi đó chết trân, không nhúc nhích gì được. Trong trí tôi không nghĩ ra được một chữ gì để nói cả. “Buổi gặp gỡ này đặt tôi vào một tình trạng rất xúc động. Tôi bực bội và ê chề tràn ngập. Tôi ngồi đó mắt đỏ hoe khốn khổ, hai má nóng bừng với đôi hàng lệ tuôn rơi không ngừng.

“Thấy tội nghiệp, thầy bèn giao cho tôi tham mấy công án như: Bảo tháp của Sơ Sơn, Trâu đi qua cửa sổ,  Cái chết của Nam Tuyền, Bụi hoa của Nam Tuyền, Chiếc áo ở Thanh Châu, Que cứt khô của Vân Môn.

– Người nào thông qua được bất cứ công án nào trong số đó thì trọn vẹn xứng đáng được gọi là hậu duệ của chư Phật, chư Tổ. Ngài nói.

“Trong tôi chợt bùng lên một niềm phấn chấn mãnh liệt, làm kiên cố thêm chí nguyện sẵn có. Tôi nghiền ngẫm ngày đêm những công án này. Tấn công chúng từ đằng trước. Gặm nhấm chúng từ hai bên. Nhưng chẳng lóe lên được một tia hiểu biết nào. Thất vọng, nức nở, tôi thề nguyền: ‘Triệu thỉnh, triệu thỉnh chư thiên vương, quỷ thần mười phương tám hướng, nếu sau bảy ngày mà tôi thất bại không thông nổi một trong những công án này, xin đến bắt sống tôi đi.’

“Tôi thắp một nén hương, cúi xuống đảnh lễ, rồi tiếp tục tọa thiền. Tôi hành thiền liên miên không hề ngưng nghỉ, không để ra một phút nào nằm xuống ngủ. Thầy đến, la mắng tôi: ‘Mi chỉ biết hành thiền trong một cái hố!’

“Rồi ngài nói, ‘Nếu hôm nay mi có ra ngoài năm châu bốn biển, đi tìm cùng khắp trên thế giới này một vị chân sư một người có thể làm hồi sinh được cái kho báu thiền đã bị đóng rào kín lại thì còn khó hơn đi tìm sao trên trời giữa trưa.’

“Nghe vậy, tôi lấy làm nghi ngờ. ‘Dù sao đi nữa,’ tôi lý luận, ‘cũng có biết bao nhiêu là thiền viện trong nước với bao nhiêu là danh sư, nhiều như hạt đậu, như mè vậy. Ông già này, trong cái chùa tồi tàn mục nát này, sao mà kiêu căng ngã mạn thế! Chắc ta nên rời nơi này mà đi chỗ khác tốt hơn.’

“Sáng sớm hôm sau, vẫn còn nặng chĩu những chán chường, tôi cầm lấy bình bát, đi ra khất thực ở ngoài làng, vùng lân cận lâu đài Iiyama.

“Tôi hoàn toàn chú tâm vào công án của mình  không hề xao lãng một giây một phút nào. Rồi tôi đến trước một căn nhà, bình bát trong tay, đứng lặng người như đang trong mê. Từ trong nhà, có tiếng thét vọng ra: ‘Đi chỗ khác đi! Đi chỗ khác đi!’ Nhưng tôi không hề để ý đến, vì trong tâm đang quá chú mục tập trung. Chắc điều ấy làm người trong nhà nổi giận, nên đột nhiên bà ta xuất hiện trước ngưỡng cửa, vung vẩy chổi chà trên tay. Rồi bà ta nhào tới đập loạn xạ, đánh lên đánh xuống trên đầu tôi như là muốn bửa óc tôi ra vậy. Cái nón rộng vành của tôi tan tành, rách tơi tả. Tôi ngã nhào xuống, nằm thẳng cẳng trên mặt đất, bất tỉnh nhân sự. Tôi nằm đó như người chết rồi.

“Lúc đó, hàng xóm nghe tiếng ồn ào, đều ló người ra khỏi cửa, tỏ vẻ lo lắng: ‘Coi kìa, bà già điên đã gây cớ sự như thế đấy!’ Họ kháo nhau, rồi vội vàng rút lui vào trong nhà. Một màn im lặng bao trùm theo sau, không một tiếng động chung quanh, không một dấu hiệu gì của sự sống. Một lúc lâu sau, có một số người đi ngang qua, họ tiến tới gần tôi, lộ vẻ ngạc nhiên. Rồi họ đỡ lấy người tôi, dựng tôi ngồi dậy.

“‘Làm sao thế? Cái gì xảy ra vậy?’ họ xôn xao hỏi.

“Trong giây phút bừng dậy mở mắt ra, đột nhiên ý nghĩa của những công án hóc búa và nan giải tôi đã tham khán ngày đêm những cái móng mèo độc địa ấy—chợt hiện lên thật rõ ràng, thật thấu suốt, tới tận gốc rễ. Bỗng dưng, chúng không còn tồn tại nữa. Mừng rỡ, tôi vỗ tay, cười ha hả sung sướng, khiến những người đang tụ lại giúp đỡ tôi hốt hoảng.

“‘Ông này mất trí rồi! Ông thầy điên rồi!’ Họ la lên, sợ hãi lùi ra xa. Rồi họ quay gót, ba chân bốn cẳng chạy mất, không hề dám nhìn lại.

“Tôi lồm cồm đứng dậy, vuốt lại ve áo, cột lại cái nón te tua đội lên đầu. Rồi với nét mặt rạng rỡ, nụ cười hoan hỉ, tôi chậm rãi, vui vẻ bước trên con đường trở về chùa.

“Chợt có một ông già vẫy tôi lại. ‘Đại đức,’ ông nói với tôi, ‘bà già đó, thực tình, đã làm thầy một phen mất vía, phải không?’

“Tôi thoáng mỉm cười, nhưng không trả lời. Ông già dâng cúng một bát cơm rồi để tôi đi. “Tôi về đến cổng am Chánh Thọ, nụ cười nở rộng trên môi. Thầy đang đứng trên hành lang. Vừa nhìn thấy tôi, thầy nói, ‘Mi vừa gặp chuyện gì vui lắm hả. Nói cho ta nghe đi.’

“Tôi bước đến chỗ thầy, kể lể dông dài về kinh nghiệm chứng ngộ vừa qua. Thầy cầm cây quạt, khẽ đập lên lưng tôi.

– Ta thực sự mong mi sẽ sống đến tuổi của ta, ngài nói. Mi phải cương quyết không bao giờ chịu hài lòng với những sở đắc nhỏ nhoi. Bây giờ đã đến lúc phải nỗ lực tu tập cho hậu chứng ngộ. Những người mới có chút đạt ngộ đã cho là đủ sẽ không bao giờ vượt khỏi hàng Thanh Văn. Những người nào ngừng lại không biết tiếp tục hành trì sau khi đạt ngộ thì thế nào rồi cũng chỉ được đến như A La Hán Tiểu thừa là cùng, cái quả vị nhận được ấy thật là tầm thường. Thật đấy, ta thà thấy mi tái sinh vào thân ghẻ lở hôi hám, trơ trụi của một con cáo già còn hơn là trở thành một tăng sĩ Nhị thừa.

Nhắc đến sự tu tập hậu chứng ngộ, thầy có ý nói là sau khi đã được chứng ngộ lần đầu, vẫn phải nỗ lực chuyên tâm tu trì và khi sự tu trì đó có kết quả, vẫn phải tiếp tục tiến tới nữa. Khi tiếp tục tiến bước trên con đường Đạo ấy, thế nào ta cũng sẽ gặp phải một rào cản cuối cùng rất khó khăn.

Điều cần thiết chỉ là phải dốc lòng kín đáo hành trì miên mật, cũng như dùng phương tiện chánh trực mà tùy thuận ứng hoá đó chính là tinh túy của tinh túy vậy. Đám người thực hành kiểu Thiền Vô Sanh ngày nay nhiều nhan nhản, họ sống như những gốc cây khô “im lặng tự quán chiếu”, thật còn tệ lậu hơn là những con cáo già ghẻ lở hôi hám.

“Cái gì là kín đáo hành trì và phương tiện chánh trực”, một người hỏi.

Kín đáo hành trì chắc chắn không có nghĩa là lẩn trốn vào chỗ sơn cùng thủy tận để ngồi đó chết trân như một khúc gỗ hay một tảng đá, hay ở dưới một gốc cây “im lặng tự quán chiếu”. Mà đó có nghĩa là phải hoàn toàn chú tâm tu trì trong tất cả mọi lúc và tất cả mọi hoạt động đi, đứng, nằm ngồi. Vì thế, có câu nói rằng tập trung tu trì ngay trong lòng hoạt động là siêu việt hơn gấp trăm, gấp ngàn, ngay cả gấp triệu lần tu trì trong trạng thái không động.

Khi đã chứng ngộ, nếu ta cứ tiếp tục nhiếp tâm tu hành, rút những nanh vuốt độc hại trong hang Pháp ra, xé nát những bùa mê xấu ác đã hủy hoại sự sống con người, duyệt qua những bản văn đủ loại, Phật pháp hay không Phật pháp, tích lũy một kho Pháp bảo thật phong phú, chuyển bánh xe Pháp của Tứ Hoằng Thệ Nguyện, thề sẽ độ hết chúng sanh trong khi mỗi giây mỗi phút đều dũng mãnh tinh tấn hành bố thí Ba La Mật, mà không có một chút gì – không một mảy may – dính líu đến danh vọng hay lợi ích cá nhân ở bất cứ một hình thức gì – nếu làm được như thế, ta sẽ là một hậu duệ chân chính và hợp pháp của chư Phật Tổ. Phần thưởng đó còn lớn hơn là được tái sinh vào cõi trời người.