NHỮNG PHONG TRÀO KITÔ GIÁO HIỆN ĐẠI
Trích “DẪN LUẬN VỀ KITÔ GIÁO” – Linda Woodhead
(Trích “BỘ DẪN LUẬN VỀ TÔN GIÁO” – Oxford University Press; Nguyễn Tiến Văn dịch. – NXB Hồng Đức 2020.)
——-



——-
Bất chấp những biến cố và những cuộc cách mạng, thời kì hiện đại là thời kì tràn trề sinh lực của Kitô giáo. Trong thời đế chế, điều này đặc biệt đúng với những giáo hội phương Tây, đến đầu thế kỉ 20 vốn đã nghiêm túc tiên đoán quá trình Kitô hoá của toàn cầu chỉ trong một thế hệ đơn lẻ. Cùng với việc chứng kiến sự tăng trưởng và truyền bá mau chóng, Kitô giáo được khích lệ bởi một số trào lưu mới xuyên suốt những giáo hội đang tồn tại thuộc các kiểu thức Kitô giáo Giáo hội, Kitô giáo Thánh kinh và Kitô giáo huyền học.
Kitô giáo Tự do
Phong trào đầu tiên và trong nhiều cung cách, thành công nhất trong những phong trào hiện đại là Kitô giáo Tự do. Đây là cái tên được đặt cho quỹ đạo bên trong những giáo hội ủng hộ tiếng gọi cách mạng của trào lưu hiện đại cho quyền tự do con người và tự do khám phá rộng mở hơn. Chủ nghĩa tự do Kitô giáo tiêu biểu cho phong trào Kháng cách, những cũng có những trào lưu tự do không chính thức trong Giáo hội Công giáo. Kitô giáo Tự do có ảnh hưởng mạnh suốt thế kỉ 19 và cả thế kỉ 20 đến mức đối với nhiều người, nó dường như phải đắc thắng trước những hình thức khác ít “tiến bộ hơn của tông giáo này.
Những người tự do bác bỏ ý niệm rằng chân lí được định vị chủ yếu trong Kinh thánh hoặc trong những truyền thống của Giáo hội, và họ tin rằng lí trí của con người cũng đóng góp một phần thiết yếu. Nói cho cùng, cả Kinh thánh và truyền thống sẽ chẳng có bất cứ ý nghĩa gì nếu không có sự thông giải, và tại sao Thượng đế lại ban cho con người khả năng suy nghĩ cho chính họ nếu không phải là để họ sử dụng nó? Hơn nữa, nếu Thượng đế đã tạo ra thế giới, chẳng có thứ gì mà lí trí có thể khám phá về thế giới lại có thể làm xói mòn sự tin tưởng vào đấng sáng tạo, và chẳng có thứ gì khoa học có thể khám phá ra mà Kitô hữu lại nên bác bỏ. Khi khoa học hiện đại tăng trưởng về quyền lực và thế giá, chủ nghĩa tự do vì thế có thể hội nhập khoa học vào Kitô giáo. Kitô hữu Tự do thường chấp nhận để các nhà khoa học toàn quyền trong thế giới của riêng họ – khảo sát giới tự nhiên và những vận hành của nó – nhưng họ dành cho chính mình việc nói về Thượng đế và về cung cách mà các cá nhân và xã hội phải xử sự ra sao trong tương quan với Ngài.
Vì thế, Kitô giáo Tự do ít bị khó khăn trong việc hấp thu những khám phá và lí thuyết khoa học mới trái ngược với thông giải truyền thống về Kinh thánh. Khó khăn đầu tiên và thách thức nhất là khám phá rằng trái đất cổ xưa hơn rất nhiều so với con số 6006 năm mà một số nhà thần học đã tính toán trên cơ sở các kí lục của Kinh thánh. Áp dụng những phương pháp lịch sử đối với Kinh thánh cũng làm bất ổn đức tin do việc đặt câu hỏi trên những niềm tin đã ổn định – chẳng hạn việc Moses đã viết 5 sách đầu của Kinh thánh và việc các sách phúc âm ghi chép những lời đích thực của Jesus. Những lí thuyết của Darwin trái ngược với kết toán về sự sáng tạo trong Sáng thế kí và làm xói mòn quan điểm của Kitô giáo rằng Thượng đế đã sáng tạo thế giới vì lợi ích của con người. Hơn nữa, thuyết tiến hoá của Darwin cống hiến kết toán ổn thoả đầu tiên về việc sự sống có thể đã hình thành ra sao không phải như là hậu quả từ thiết kế của Thượng đế mà qua sự ngẫu nhiên. Thế nhưng, thần học Tự do đồng hoá tất cả những điều này bằng lập luận rằng sự tiến hoá không phải là một giao thế cho sự sáng tạo của Thượng đế, mà chỉ là phương pháp qua đó sự sáng tạo ấy diễn ra. Đối với người Kitô giáo Tự do, những kết toán giống như kết toán trong Sáng thế kỉ là những huyền thoại chứa đựng những chân lí tâm linh sâu xa nhưng không nên nhầm lẫn với luận văn khoa học.
Vốn đề cao khả năng của con người suy nghĩ cho chính mình, không có gì là ngạc nhiên khi chủ nghĩa tự do đã sản sinh một số lượng lớn những suy tư thần học. Nhà thần học người Đức Friedrich Schleiermacher (1768 – 1834) đóng vai trò chủ yếu trong việc thiết định chương trình hành động tự do cho thần học hiện đại, và trong sự xoay chuyển ngọn triều chống lại những hình thức giáo điều hơn về thần học vốn đã trở thành đặc trưng cho thời kì hậu Cải cách. Schleiermacher hiểu rõ tại sao những người đồng thời với ông lại quay mặt với những hình thức như thế của Kitô giáo, nhưng lập luận rằng họ đã hiểu sai tính chất đích thực của Đức tin Kitô giáo (đây là nhan đề một trong các cuốn sách quan trọng nhất của ông). Ông lập luận rằng đức tin ấy liên quan tới những cảm xúc về việc tuỳ thuộc tuyệt đối hơn là với sự đồng tình cùng những đề nghị về tín niệm. Khi nói điều này, Schleiermacher đặt nền tảng cho Kitô giáo Tự do, mặc dù ông nhấn mạnh rằng trải nghiệm như thế được thông giải trọn vẹn và đầy đủ nhất trong ánh sáng của kinh điển và trong sự mặc khải của Jesus Christ.
Với việc đề cao giá trị của con người, trải nghiệm của con người, và tự do của con người – bao gồm cả tự do để suy nghĩ về chính mình . Kitô giáo Tự do đã cuốn lấy đợt sóng đầu của chủ nghĩa tự do trong đà tiến của nó. Nó tự xem mình là thành phần của hành khúc tiến tới của lịch sử hiện đại, nó sẽ gạt sang bên đường sự chuyên chế và mê tín, thay thế chúng bằng những dàn xếp chính trị tự do hơn và đức tin duy lí hơn. Đây là một phần biện minh của nó cho sự bành trướng của Kitô giáo và sự liên kết với chủ nghĩa thực dân phương Tây để truyền bá ‘văn minh.
Nói một cách khái quát, Kitô giáo Tự do vẫn còn là một khuynh hướng tư duy và cam kết tông giáo bên trong giáo hội, cho cả hai kiểu thức Kitô giáo Thánh kinh và huyền học, hơn là làm nảy sinh những giáo hội tự do một cách nổi bật. Với ngoại lệ về những thí dụ như những giáo phái Nhất vị và Phổ độ (Unitarian and Universalist churches), có ảnh hưởng nhất bên trong các giáo phái hiện hữu. Điều này đôi khi dẫn tới sự tranh đấu giữa những người chấp nhận và những người không chấp nhận chủ nghĩa tự do. Suốt thế kỉ 19, Kitô giáo Tự do đã trở thành dòng chủ lưu trong văn hoá phương Tây. Nó ủng hộ các quyền lợi và giá trị của những giai cấp trung lưu đang lên và các chính trị gia của những giai cấp này, trong khi duy trì lương tâm xã hội bằng việc kêu gọi sự cải thiện điều kiện sống của tầng lớp lao động công nghiệp.
Cho tới tận thập kỉ 1970, dường như hợp lí để cho rằng Kitô giáo Tự do sẽ vẫn tiếp tục thống trị thế giới Kitô giáo, đặc biệt là phong trào Kháng cách. Những nhà thần học tự do như Rudolph Bultmann (1884 – 1976) và Paul Tillich (1886 – 1965) giúp thiết lập chương trình hành động tri thức của Kitô giáo, và ở Hoa Kỳ, phong trào tranh đấu cho dân quyền rất có ảnh hưởng được lãnh đạo bởi một mục sư của giáo hội Baptist là Martin Luther King. Tới thập niên 1960, thậm chí Giáo hội Công giáo đã đi theo một hướng tự do hơn sau Cộng đồng Vatican II (1962 – 1965). Cộng đồng này được triệu tập bởi Giáo hoàng John XXIII, đã kết thúc tâm thái pháo đài từng khiến Giáo hội Công giáo quay mặt với tính hiện đại và rút vào thế giới thần học kinh viện tân – Thomas và sự thần phục La Mã. Cộng đồng Vatican II đã đưa một số thay đổi lớn lao vào đời sống và tư duy Công giáo, bao gồm cả việc sử dụng những ngôn ngữ phổ thông thay vì tiếng Latin trong việc thờ phụng. Trong việc du nhập những bản thánh ca và dàn hợp xướng hiện đại, sự tự do hoá về đời sống tông giáo cho các nam nữ tu sĩ, một tiếp cận mang tính phê phán hơn đối với các khảo sát về Kinh thánh và thần học, chấp nhận những nguyên lí về tự do và khoan hồng tông giáo. Cộng đồng này cũng phê chuẩn một sự tự giác mới trong đó giáo hội được đồng hoá với toàn thể con dân của Thượng để hơn là với giáo hoàng và hàng giáo phẩm.
Mặc dù thành công đáng kể và ảnh hưởng rộng khắp của Kitô giáo Tự do, nhưng đến cuối thế kỉ 20, rõ ràng là sự đoan chắc vào việc đắc thắng tất nhiên của nó đã bị đặt sai. Trong Giáo hội Công giáo, đường hướng tự do trong hành trình được khởi xướng bởi Cộng đồng Vatican II đã bị chặn đứng bởi những vị giáo hoàng kế tiếp. Diễn tiến này bắt đầu vào năm 1968 khi giáo hoàng Paul VI chống lại những mong mỏi của nhiều tín đồ Công giáo, đưa ra một tài liệu gọi là Humanae Vitae (Đời sống con người) tái khẳng định sự phản đối những phương tiện nhân tạo giúp ngừa thai. Dưới triều đại dài của John Paul II (giáo hoàng từ 1978 đến 2005), khuynh hướng bảo thủ được tăng cường, đặc biệt là về đạo đức cá nhân. Mặc dù John Paul II bênh vực quyền của con người chống lại sự đàn áp của nhà nước, ông tiếp tục phản đối những thay đổi liên kết với giai đoạn thứ hai của chủ nghĩa tự do bao gồm cả việc hợp pháp hoá phá thai, việc tấn phong cho phụ nữ và việc mở rộng quyền bình đẳng cho các cặp đồng tính. Sự thất bại của Giáo hội Công giáo trong việc xử lí rốt ráo nạn các giáo sĩ lạm dụng trẻ em đã củng cố ấn tượng rằng nó để kháng sâu xa với mọi khía cạnh của chủ nghĩa tự do thuộc giai đoạn thứ hai.
Mặc dù con số ngày càng gia tăng những giáo hội Kháng cách, đặc biệt là những giáo hội tự do, đã quyết định phong chức giáo sĩ cho phụ nữ trong tiến trình thế kỉ 20, những giáo hội này nói chung cũng ngần ngại trong việc đề cao chủ nghĩa tự do của thời kỳ sau 1970. Việc lạm dụng trẻ em không phải là một tai tiếng trong những giáo hội Kháng cách [các mục sư không những được phép lập gia đình, mà phải là người đã kết hôn mới có thể đảm nhiệm những chức vụ trong hội thánh] nhưng họ cố thủ trong ý tưởng gia đình truyền thống và quan điểm cho rằng tính dục phải được khẳng định trong hôn nhân dị tính. Trong thực hành, quan điểm này thường đi cùng một chủ nghĩa gia trưởng nhấn mạnh vào sự dị biệt được Thượng đế tạo ra giữa các giới tính và, đặc biệt là trong Kitô giáo Tin mừng và Kitô giáo Ân tứ, tầm quan trọng của việc nam giới lãnh đạo. Hầu hết các giáo hội đã nhìn nhận với nỗi nghi ngại sâu sắc sự xoay chuyển chủ quan uy quyền từ những thẩm quyền bên ngoài tới sự chọn lựa cá nhân. Ngay cả những giáo hội Kháng cách có vẻ đang đi theo một đường hướng tự do cho đến thập niên 1970 vẫn chứng tỏ không sẵn lòng buông bỏ quyền lực của hàng giáo phẩm hoặc chống lại sự bảo thủ của những nhóm bên trong các giáo hội này đang tích cực vận động chống lại tiến trình tự do hoá hơn nữa, đặc biệt là liên hệ đến gia đình và hôn nhân đồng tính. Tóm lại, những tiếng nói Kitô hữu phản tự do đối với các đề xuất này đã thống trị Kitô giáo kể từ thập niên 1980. Các nhà lãnh đạo giáo hội đã chứng tỏ bảo thủ hơn nhiều so với “tín đồ của họ và trong nhiều xã hội tự do, có một vực sâu mở ra giữa hàng giáo phẩm và giáo dân và vực sâu ấy càng mở rộng trong thế kỉ 21, làm cho tiến trình thế tục hoá càng gia tốc.
——-



——-
Ảnh: nguồn internet

