TÁNH KHÔNG CỦA TÂM

DUDJOM DORJEE


Dudjom Dorjee sinh trưởng trong một gia đình du mục ở phía Đông Tây Tạng, trưởng thành ở Ấn Độ và nhận bằng cấp giáo thụ kiệt xuất từ Đại học Sanskrit ở Varanasi. Năm 1981, theo yêu cầu của Pháp vương thứ 16 dòng Karmapa là Gyalwang Karmapa, ngài tới Hoa Kỳ với tính cách đại diện cho dòng truyền thừa Karma Kagyu của Phật Giáo Tây Tạng. Từ đó ngài đã giảng dạy cả trong khung cảnh Đại học cũng như ở những trung tâm đạo pháp. Hiện ngài là vị Lạt ma trú xứ của tu viện KarmaThegsum Choling tại Dallas, Texas, Hoa Kỳ.

SỰ KHOÁNG ĐẠT KHÔNG CHƯỚNG NGẠI

Khi dấn thân vào thiền định về bản chất của tâm trong trạng thái tự nhiên phẩm chất hoặc đặc trưng thứ hai của tâm mà chúng ta tìm thấy là sự khoáng đạt không chướng ngại. Điều này có nghĩa là khoảng không gian trong đó tâm vận hành là vô biên, hoặc vô hạn. Không có ranh giới nào cho tâm và vì vậy tâm chẳng bao giờ có thể bị làm đầy ; tâm của chúng ta chẳng bao giờ hết chỗ cho những biểu hiện khởi lên. Cũng vậy, không gian ấy là không chướng ngại, có nghĩa là không có gì trong không gian của tâm khiến cho tâm không thể di động một cách tự do. Chính bởi phẩm tính khoáng đạt này mà các biểu hiện có thể khởi lên và rồi được quan sát và thông giải.

Để giải thích rõ hơn về đặc trưng khoáng đạt không chướng ngại, chúng ta có thể quay lại với sự so sánh tâm như một căn phòng. Chúng ta đã thiết lập được rằng, do bản chất của tâm là quang minh và sáng tỏ, tâm giống như một căn phòng trong đó chúng ta có thể nhìn thấy mọi thứ bởi ngọn đèn đang thắp và không khí trong trẻo. Nhưng ngọn đèn có nghĩa là sự sáng tỏ không đủ để giải thích sự xuất hiện của các hiện tượng. Hiển nhiên phải có không gian bên trong căn phòng để cho những biểu hiện kia khởi lên, nhưng không gian đó cũng phải không bị chướng ngại; phải có đủ không gian cho vô hạn những biểu hiện khởi lên. Nếu không phải như thế, cuối cùng thực tại tương đối ắt sẽ “tràn ngập” và không biểu hiện nào có thể khởi lên được nữa! Chính vì lí do này, sự so sánh của chúng ta về tâm như một căn phòng hoàn toàn không đúng với thực tại, bởi tâm khoáng đạt, rộng lớn hơn bất cứ căn phòng nào chúng ta có thể tưởng tượng ra trong thực tại tương đối.

Căn phòng của tâm trong trạng thái tự nhiên của nó rộng lớn đến mức không thể tìm ra những bức vách nào để ngăn chặn sự vận động bên trong tâm. Tâm khoáng đạt vô biên, nên không cần các cửa sổ và cửa đi, và vì vậy không có cách nào để khóa tâm vào một hạn chế đặc thù. Tương tự, không có những giới hạn về chiều cao để chúng ta có thể di động bên trong tâm; vậy nên chúng ta có thể nói rằng căn phòng ấy không có trần hoặc sàn nhà. Nó rộng đến mức chẳng bao giờ có thể làm đầy: luôn luôn có chỗ cho những hiện tương thêm nữa khởi lên. Không gian bên trong căn phòng này cũng không bị chướng ngại, có nghĩa là bất kể là rộng lớn đến đâu hoặc có bao nhiêu hiện tượng xuất hiện, chúng cũng không thể gây trở ngại cho vận động của tâm.

Nhiều người nghe lời giải thích này về sự khoáng đạt không chướng ngại của tâm có thể phản đối rằng điều đó không đúng, rằng trải nghiệm của họ về thực tại được biểu hiện bằng cảm giác sâu xa về sự trói buộc và tù túng ngạt thở. Nhiều người có thể đưa ra những thí dụ rõ ràng về các hạn chế, chẳng hạn như sự cầm tù và nô lệ mà họ đã trải qua. ở một bình diện tế nhị hơn, chúng ta thường trải nghiệm những xiềng xích của cảm xúc phiền não như là sự chán chường, khiến chúng ta cảm thấy như thể tâm trí bị giam cầm chứ không phải là thân thể. Ở một bình diện còn tinh tế hơn nữa, chúng ta có thể nói rằng chúng ta bị trói buộc bằng những xiềng xích của luân hồi, nó thậm chí còn thu hẹp hơn nữa khả năng di động một cách tự do của chúng ta qua không gian không chướng ngại của thực tại tối hậu.

Tuy nhiên, tất cả những giới hạn biểu hiện đối với tính khoáng đạt không chướng ngại chỉ là những sự ngụy tạo của tư duy khái niệm dính mắc vào sự vô minh và hoang mang thâm sâu. Đây là lí do sự hoàn thiện của thiền chỉ và thiền quán rất thiết yếu cho sự giải thoát và trải nghiệm về giác ngộ. Khi chúng ta học cách thiền định về bản chất của tâm và hoàn toàn thực chứng được bản chất của tâm là không gian không chướng ngại, khi đó chẳng còn gì có thể hạn chế sự vận động của tâm. Chúng ta trải nghiệm một sự vô giới hạn vốn không thể nào tưởng tượng ra được trong tình trạng hiện thời của cái tâm hoang tưởng về những hồi hộp và lo sợ, về những nhị nguyên lầm lạc. Lúc đó, chúng ta có thể thực sự trải nghiệm được sự thoát khỏi mọi ranh giới, dù là sự cầm tù thân thể, sự trói buộc của cảm xúc phiền não, hoặc những xiềng xích của chuỗi tái sinh và đau khổ là luân hồi. Khi cuối cùng, chúng ta trải nghiệm sự thực chúng trọn vẹn tính khoáng đạt không chướng ngại, cõi cực lạc của niết bàn cũng sẽ được thực chứng. Đây là sự hoàn thiện của thiền chỉ và thiền quán.

Chính sự khoáng đạt không chướng ngại này cho phép tâm luân hồi tái sinh. Ngược lại, nếu in vào luân hồi tái sinh, chúng ta cũng đã có ít nhiều khái niệm về sự khoáng đạt không chướng ngại. Bằng định nghĩa, sự khoáng đạt không chướng ngại như một phẩm chất của tâm chỉ ra rằng tâm không bao giờ thực sự bị trói buộc hay chặn đứng trong bất kì cách nào. Vậy là tâm vốn độc lập với thân thể vật lí. Một cách để biểu lộ ý tưởng này là phát biểu đơn giản “ Tôi có một thân thể, nhưng tôi không phải là thân thể của tôi”. Mặc dù chúng ta thường cảm thấy hoàn toàn bị trói buộc vào thân thể, cái chết có một cách rất xác tính để phô bày với chúng ta rằng chúng ta không thực sự bị trói buộc trong thân thể. Chúng ta di chuyển vào thân thể của mình và ở lại đó trong một kiếp sống. Khi được nhìn nhận với sự mở rộng vô biên của thời gian vô thủy vô chung, một kiếp sống quả là hoàn toàn ngắn ngủi. Tâm chúng ta đã di chuyển từ thân thể này sang thân thể khác qua vô số kiếp sống, và sẽ tiếp tục như thế cho tới khi chúng ta đạt được giác ngộ và rời khỏi chu kì sinh tử rồi lại tái sinh vốn là đặc trưng của vòng luân hồi.

Chính sự khoáng đạt không chướng ngại của tâm trong trạng thái tự nhiên của nó cho phép quy trình này xảy ra. Khi, qua vòng luân hồi, chúng ta được sinh vào thế giới này như một con người, chỉ là sự vô minh và hoang mang của chính chúng ta khiến chúng ta tin rằng mình bị cột chặt vào cái thân thể mà mình đã tới trú ngụ. Chúng ta quá hoang mang đến mức thậm chí đôi khi tin rằng không phải chúng ta chỉ mắc bẫy trong cái thân thể đó, mà chúng ta “chính” là cái thân thể đó. Chúng ta không thể biện biệt được đâu là thân thể và đâu là tâm, và thân thể trở thành một phần tích hợp căn cước của chúng ta. Tuy nhiên, quy trình tái nhập thể ( reincarnation) này – vòng xoay của sinh ra, chết đi, và tái sinh tức là luân hồi – lẽ ra phải là một minh họa xác tín rằng ý niệm “thân thể này là tự ngã’ thực sự sai lầm. Thay vì là thân thể của mình, chúng ta trú ngụ trong nhiều, thậm chí vô hạn, thân thể qua dòng thời gian của chuỗi luân hồi. Thay đổi các thân thể chẳng khác gì việc thay đổi quần áo, dẫu rằng dễ gây chấn thương hơn, do sự kiện là một cách tiêu biểu, chúng ta tham luyến với thân thể mình hơn là với bất cứ bộ quần áo nào.

TÁNH KHÔNG VÀ KHẢ TÍNH VÔ GIỚI HẠN

Khi học về bản chất của tâm, chủ đề được nhắc tới thường xuyên hơn cả và dường như được chú ý nhất trong những người thực hành thiền quán, và phẩm chất này của tâm thường được mô tả nhiều nhất là tánh Không của sự hiện hữu nội tại hoặc cố hữu, có khuynh hướng được rút gọn thành “tánh Không”. Một số người mô tả cũng phẩm chất này bằng một cách khác là nói rằng tâm sở hữu khả tính vô giới hạn về chuyển hóa. Không có cái gì mà tâm nhận biết được lại thường hằng, không thay đổi, hoặc tồn tại một cách độc lập. Mọi thứ mà tâm nhận biết đều là một hiện tượng khởi phát lên một cách lệ thuộc (gọi là tùy duyên, hoặc duyên khởi), nó có thể chấm dứt sự xuất hiện cũng dễ dàng như nó xuất hiện trong tâm. Bất kể chúng ta cố gắng đến đâu hoặc nhìn lui lại phía sau xa đến đâu, luôn luôn có một cái gì đó tới trước cung cấp những nguyên nhân và điều kiện cho sự khởi lên của một hiện tượng đặc thù.

Chẳng hạn, thử lấy chiếc xe hơi của bạn. Dễ thấy là cái xe đã khởi lên tùy duyên như thế nào: nó là một tập hợp những thành phần được lắp ráp do một hoặc nhiều người, hoặc thậm chí do cả robot trong một công xưởng. Nếu bất cứ thứ nào trong những bộ phận kia mất đi, hoặc bất cứ ai trong những người thợ hoặc những robot thi hành nhiệm vụ không đúng cách, cái xe sẽ không vận hành đúng cách, thậm chí còn không vận hành được. Tuy nhiên, chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng chiếc xe hơi của chúng ta là vững chắc và có thật. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng chiếc xe hơi của chúng ta tồn tại đích thực. Nhưng nếu lấy đi khỏi chiếc xe một bộ phận, thì sẽ ra sao? Nếu có ai hỏi rằng chúng ta có sở hữu chiếc xe hơi đó không, hẳn chúng ta vẫn trả lời là có, dù nó vừa mất một bộ phận. Nếu chúng ta lấy thí dụ này và đẩy tới cùng cực lí luận và cuối cùng lấy đi khỏi chiếc xe mọi bộ phận trừ cái đầu máy, chúng ta có vẫn sở hữu một chiếc xe? Phần lớn sẽ nói là không, chắc chắn là không, chúng ta chỉ có một cái đầu máy xe. Nhưng, vào thời điểm nào chiếc xe thôi không còn là một chiếc xe nữa, và thay vì thế trở thành những bộ phận cấu thành? Điều này có thể đẩy còn xa hơn nữa: tất cả những bộ phận đều được làm bằng những chất liệu như thủy tinh, nhựa cứng, và kim loại. Trong thế giới hiện đại, chúng ta biết rành rẽ rằng những thứ đó cũng có thể được phân giải thành những phần nhỏ hơn như là những hợp chất hóa học đơn giản, những nguyên tố cơ bản, và xa hơn nữa thành những hạt hạ nguyên tử và thậm chí nhỏ hơn nữa như những quark. Dường như vật lý học liên tục khám phá ra một hạt cơ bản còn nhỏ hơn nữa mà dựa trên đó chiếc xe hơi của bạn được tạo nên! Vậy chiếc xe hơi của bạn nói cho cùng tồn tại như thế nào?

Điều này cũng đúng cho mọi hiện tượng phát khởi. Chúng ta có thể cố tìm cho ra một biến cố nền tảng, đơn độc, từ đó mọi vật phát khởi, nhưng tới nay vẫn chưa tìm ra. Thực vậy, nếu có, không sự phát khởi nào có thể từng xảy ra. Vũ trụ tương đối ắt hẳn sẽ không thay đổi bởi vì không có khả năng nào cho bất cứ biến cố nào xảy ra hoặc bất cứ vật nào xuất hiện, bởi cả hai đòi hỏi sự thay đổi ở một bình diện nào đó bất kể là tinh tế tới đâu. Bởi thế, chúng ta có thể tinh tưởng mà nói rằng không chỉ cái tâm là trống rỗng về sự hiện hữu nội tại, mà còn có thể nói rằng do cái tánh Không đó, tâm sở hữu khả năng vô giới hạn cho sự thay đổi và chuyển hóa.

Một sự phân biệt quan trọng cần phải làm rõ ở đây là sự khác biệt giữa quan điểm Phật giáo về tánh Không và quan điểm của chủ nghĩa hư vô (nihilism). Chủ nghĩa hư vô tin tưởng rằng không có gì tồn tại, rằng mọi hiện tượng điều là hư không, và không có biểu hiện nào có thực. Quan điểm của chủ nghĩa hư vô về vũ trụ tương đối cũng có một cực đoan về luận lí: rằng không gì là quan trọng, rằng không có đúng hoặc sai, và rằng các hữu thể có thể xử sự bằng bất cứ cách nào, dù cho tiêu cực ra sao, cũng không có bất cứ loại hậu quả nào cả, về nghiệp báo hoặc cách khác. Nhưng rõ ràng là không phải như thế. Tôi có thể nhìn thấy những hiện tượng phát khởi; tôi có thể mô tả những biểu hiện tới trong tâm trí tôi. Như những Phật tử chúng ta không tuyên xưng rằng không có gì hiện hữu trong ý nghĩa rằng mọi hiện tượng điều là hư vô hoặc không tồn tại. Thay vì thế, chúng ta chỉ quán sát rằng các hiện tượng không tồn tại một cách thực sự hoặc cố hữu; rằng có những biểu hiện xảy ra do những nguyên nhân và điều kiện. Bởi những biểu hiện này lệ thuộc vào những nguyên nhân và điều kiện, vì vậy chúng có thể biến mất cũng dễ dàng như chúng đã xuất hiện. Không phải là sự vật không tồn tại, mà là chúng không tồn tại một cách độc lập với những sự vật khác. Bởi mối quan hệ tương thuộc (lệ thuộc vào nhau) giữa tất cả các hiện tượng, thực sự có rất ít sự vững chắc và rất nhiều sự lưu động hơn những gì chúng ta có thể tri giác bên trong cái thực tại tương đối, bề ngoài. Sự phân biệt quan trọng phải được làm rõ ở đây là mặc dù các Phật tử tin tưởng về quan điểm tánh Không và khả tính vô giới hạn bên trong thực tại tương đối, chúng ta vẫn có thể tin tưởng vào luật nhân quả của nghiệp báo, cũng như sự tồn tại của đau khổ bên trong những ràng buộc của luân hồi. Như vậy, chúng ta không sa vào vòng xoáy đi xuống của chủ nghĩa hư vô về sự tự luyến vô luân (amoral narcissism).

Một trong những hàm nghĩa kích động nhất về quan điểm của vũ trụ là một khi chúng ta đã thực chứng bản chất rốt ráo của tâm chúng ta, do đó chúng ta cũng thực hiện được bản chất rốt ráo của mọi hiện tượng bởi những thứ này đã phát khởi bên trong tâm. Quan điểm tối hậu về thực tại tương đối sẽ cho phép thiền giả nào đã hoàn thiện được thiền chỉ và thiền quán tới an trú trong một trạng thái chính định tương đương với sự toàn tri, có được nhận thức siêu việt về mọi hiện tượng. Trong thế giới hiện đại chúng ta có thể nghĩ rằng mình đã hiểu biết rất nhiều sự vật và đã tiến xa trong sự thấu hiểu về vũ trụ. Điều này đúng trong ý nghĩa là chúng ta đã làm được một công việc xuất sắc là vẽ ra họa đồ một phần khá lớn của thực tại tương đối. Nhưng, như một chủng loại, loài người thực sự đã làm được rất ít để biết về bản chất của tâm, cho nên chúng ta thực sự cũng chẳng biết được bao nhiêu. Không biết được bản chất của tâm mình, chúng ta biết rất ít về bản chất của sự tồn tại. Tuy nhiên, một khi đã biết về bản chất của tâm, chúng ta sẽ không còn bị quá lệ thuộc vào tri thức về thế giới hiện tượng, thế tục mà hiện chúng ta đang bỏ ra quá nhiều thời gian và năng lượng để học hỏi. Không biết về tâm mình, là chúng ta không biết gì cả; biết rõ tâm mình, là chúng ta biết mọi sự.

Trích “ Thiền Chỉ Thiền Quán Và Tính Không”
Nguyễn Tiến Văn Dịch, NXB Hồng Đức, 2014.

Bình luận


Bài viết khác của tác giả

  1. QUANG MINH CỦA TÂM

Bài viết mới

  1. TÂM BÌNH THƯỜNG, TÂM PHẬT
  2. ĐỜI SỐNG XÃ HỘI: CƠ HỘI TẠO DỰNG HẠNH PHÚC
  3. MẠN ĐÀ LA – NỐI KẾT XƯA VÀ NAY