THÔNG ĐIỆP ĐẦU TIÊN

THỊ GIỚI

Thông điệp đầu tiên của đạo Phật là hình ảnh một em bé bước đi trên bảy bông sen. Đó là hình ảnh những bước đi thanh tịnh vô nhiễm của một cái tâm không có sự phân biệt, chất chứa.

Và em bé đó đã thốt lên: "Trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quí."

Vâng. Sự đản sinh của Đức Thế Tôn là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử Phật giáo. Ngài cũng là bậc tối thượng của hoàn vũ. Giáo lý của Ngài, tùy theo căn cơ của từng lớp chúng sinh mà thấm nhuần, là thuốc trị khổ, để mọi người được thảnh thơi, an lạc, xa rời mọi chấp trước nhị biên. Mọi hữu vi đều vô thường, phải chịu sanh diệt, chỉ có Không, Vô vi, mới thoát Vô thường, thoát Sanh diệt, tức là thoát Khổ. Nhưng vô vi ở đâu? Vô vi ở ngay trong hữu vi. Do đó mà hữu vi cũng trọn vẹn, đầy đủ, toàn hảo. Chỉ cần quán sát sự vật thật cụ thể, không lý luận, không suy diễn, từ đó có thể đi vào tánh Không, cả nội tâm và ngoại cảnh. Thế thì một sự vật, một thực tiễn, một thực tế tầm thường vốn toàn hảo, đầy đủ, trọn vẹn, không dư không thiếu…

Sự tôn quí mà đức Phật tuyên bố là sự tôn quí của bậc giác ngộ và sự giác ngộ, của cái Tâm rỗng suốt thấy được tánh Không đồng thời thấy được tính toàn hảo của chính mình và thế giới, và hướng dẫn chúng sanh thấy được điều đó để giải thoát.

Thông điệp đó không khác với hai thông điệp quan trọng về sau của Phật giáo nói chung và Thiền Đông Độ nói riêng. Đó là hai thông điệp của Bồ-đề-đạt-ma và Lục tổ Huệ Năng.

Khi thỉnh Bồ-đề-đạt-ma vào cung, Lương Vũ Đế hỏi Tổ: “Thánh đế đệ nhất nghĩa là thế nào?”.  Đạt-ma trả lời: “Trống không không Thánh”. Vua hỏi: “Ở trước ta là ai?”. Đạt-ma trả lời: “Không biết”. Vua không lãnh hội. Sau đó Bồ-đề-đạt-ma qua sông đến Thiếu Lâm ngồi quay mặt vào vách núi chín năm.

Cái “trống không” và “không biết” đó là thông điệp chính thức của Thiền Đông Độ. Và phải chăng chỉ có tâm hồn trẻ thơ mới “trống không” và “không biết”?.

Bồ-đề-đạt-ma ngồi chín năm quay mặt vào vách núi là ngồi chín năm với cái “trống không không biết” đó. Và chính cái “trống không không biết” đó đã tạo nên Thiền Đông Độ, thuốc chữa bịnh cho trời và người, cũng như cái ngã trẻ thơ nguyên sơ rỗng lặng và vô nhiễm trong thông điệp của Đức Phật đã là thuốc chữa bịnh cho trời, người và các loài chúng sanh.

Tịch mịch ngồi lạnh Thiếu Lâm

Lặng yên toàn bày chính lệnh

Thu trong, trăng chuyển vành sương

1 lợt, sao đẩu xuống thấp

Không dừng y bát truyền con cháu

Để thành thuốc chữa bịnh trời, người.

(Liêu liêu lãnh toạ Thiếu Lâm 

Mặc mặc toàn đề chính lịnh  

Thu thanh nguyệt chuyển sương luân   

1 đạm đẩu thùy dạ bính   

Thằng thằng y bát phó nhi tôn

Tùng thử nhân thiên thành dược bệnh)

(Thung Dung lục).

 Cái “trống không  không biết” đó cũng là thuốc an tâm cho ngài Huệ Khả khi đến cầu Tổ an tâm: Tâm vốn trống không, không nắm bắt được.

 Và đây là thông điệp của Lục tổ Huệ Năng.

Trong bài kệ đối lại bài kệ của ngài Thần Tú trình Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, ngài Huệ Năng viết:

Bồ đề vốn không cây

Gương sáng không có đài

Xưa nay không một vật

Lấy gì dính trần ai.

(Bồ đề bổn vô thọ

Minh kính diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật

Hà xứ nhạ trần ai)

(Pháp Bảo Đàn Kinh).

 Cái “gương sáng không có đài” trống không tịch tĩnh, tự tại không nương dính vào thứ gì đó được ngài Động Sơn Lương Giới của phái Tào Động gọi là Thiên Chân, là Gương Quí. Trong Bảo Kính Tam Muội, ngài Động Sơn viết:

Thiên Chân vi diệu, Không thuộc mê, ngộ.

Theo thời theo duyên, Tịch tĩnh sáng láng.

Nhỏ không chỗ trống, Lớn không chỗ chứa…

(Thiên chân nhi diệu, Bất thuộc mê ngộ

Nhân duyên thời tiết, Tịch nhiên chiêu trước

Tế nhập vô gian, Đại tuyệt phương sở…)

(Bảo Kính Tam Muội Ca).

 Đó là cái ngã không ngã, trống không, sáng láng, trải rộng toàn khắp, thâm nhập toàn khắp…  Đó là sơ tâm, tánh Phật.

Về sau phái Tào Động xiển dương pháp Chỉ Quản Đả Tọa, tức chỉ ngồi, ngồi không, hay mặc chiếu, đặt tâm vào hiện tại trống không, dừng lại thọ, tường. Thiền Lâm Tế dùng phương pháp hét, đánh v.v… để dừng dòng tâm thức của học trò, đưa vào chỗ “trống không không biết.” Với ngài Đạo Nguyên, tâm trống không nầy cũng là Đại Tâm, tâm rộng lớn, bao trùm, nói như ngài Động Sơn là “ nhỏ không chỗ trống, lớn không chỗ chứa “.

“Trong Đại Tâm, sự vô biên vô hạn của cái Ngã của chúng ta giao hòa một cách nền tảng với mọi thứ. Đó là, chúng ta thấy toàn thể vũ trụ trong chúng ta. Chúng ta thấy sự vĩnh cữu trong một khoảnh khắc, và cảm nghiệm trời và đất trong mỗi hơi thở.” (Three Mind – ancientforestzen)

Người Phật tử sống tách rời với thông điệp đầu tiên của Đức Phật thì không thể gần Phật. Hành giả Tổ sư Thiền tách rời hai thông điệp của Sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma và Lục tổ Huệ Năng nêu trên thì không thể đến gần Tổ sư Thiền.

Thêm nữa. Như trên đã nói, mọi sự vốn đã tự hoàn hảo từ đầu. Ta, người, rừng tre, bụi trúc, cây tùng trong sân … vốn đã tự hoàn hảo. Một vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: “Ý của Tổ sư từ Tây qua là gì?”. Triệu Châu trả lời: “Cây tùng trong sân”. Cái hoàn hảo đó được gọi là Chân như, là tánh Không…

Khi Đức Phật chứng ngộ, tức lúc ngài nhận ra chính ngài, ngài thốt lên: “Tất cả mọi chúng sanh, mọi sự vật, và đại địa ngay lúc nầy đều giác ngộ và toàn hảo”.

Vâng, mọi sự vật vốn đã hoàn hảo, toàn vẹn từ đầu. Và cái hoàn hảo đó là cái tự nhiên nhất, bình thường nhất. Đó là nền tảng, là sự toàn vẹn trong mọi lúc mọi nơi. Mọi thứ là toàn bộ và toàn vẹn, chúng ta là toàn bộ và toàn vẹn. Và cái đó thì không gì hơn. Một tâm hồn trẻ thơ bước đi trên bông sen thấy và sống với cái đó.

Nói về cái “trống không”, cái “ta”, cái “tôi”, Gerry Shishin Wick viết:

“Nó không phải là khoảng không thăm thẳm hay hư vô hay không có gì hết. Nó cũng không phải là cái trống rỗng khi chúng ta phàn nàn tôi cảm thấy trống rỗng.

Mọi sự đều vô thường, không có gì cố định. Nhận ra sự trống không nầy, thể nghiệm nó một cách trực tiếp, là một trong những điều quan trọng nhất trong việc tu tập của chúng ta.

Không có cái cố định được gọi là ‘tôi’ – không có gì để bám, không có cái nền bền vững để đặt chân, không có tri kiến đúng để đạt. Ngay khi nghĩ rằng đã nắm bắt được nó, thì đã mất nó. Khi trực tiếp nhận ra nó, cửa tự do rộng mở.

Khi những phóng đại về cái ngã khởi lên, những xác lập ảo tưởng về một cái tôi độc lập, chúng ta chụp giữ chúng. Vì sao chúng ta chụp giữ chúng? Chúng ta sẽ là gì nếu không ảo tưởng về một cái ngã cố định? Cái gì sẽ còn lại?

Có một câu trong trong Thiền thích hợp ở đây: ‘Ngay cả nước tan ra từ những đỉnh tuyết cũng tìm đường về đại dương’.  Nó tìm con đường cho nó ngay cả khi không biết phương hướng và những chướng ngại. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần kiểm soát mọi thứ. Vì ngu muội, chúng ta xác định cái ngã sai lầm nầy để cảm thấy an toàn và cảm thấy rằng chúng ta điều khiển đời sống của chúng ta.

Chúng ta tin rằng chúng ta là kho chứa những tư tưởng, quan niệm, cảm nhận, phản ứng… của chúng ta. Chúng ta ngăn chận cái thấy rằng chúng ta là “Cái Trống Không Lớn”, chối bỏ bản chất sâu xa vô hạn của chúng ta” (The Book of Equanimity, Gerry Shishin Wick).

Vâng. Chúng ta hãy ngồi xuống và trống không. Chỉ như một vật rỗng. Thiên đàng có thể hiện ra, địa ngục có thể hiện ra, đại không có thể hiện ra, các cảnh có thể hiện ra… Hãy chỉ là cái rỗng. Trống không, không biết, không thêm, không bớt, không theo, không bỏ… Trống không không biết đó là cái ngã vô ngã, là tâm hồn trẻ thơ bước đi trên bông sen.

Sawaki Kôdô Rôshi viết:

Trong đời sống thế gian, luôn luôn có thắng và bại, cộng và trừ. Nhưng trong Tọa Thiền thì là ‘Không’. Điều tốt nhất chính là ‘Không’. Đó là lý do nó là cái lớn nhất và bao trùm nhất”. (To You, Sawaki Kôdô Rôshi).

Kinh Kim Cang nói “Không quá khứ, không hiện tại, không tương lai”. Và chính cái “không” đó cho chúng ta sự trưởng thành. Trưởng thành có nghĩa là tự làm chủ, là không nương tựa vào bất cứ điều gì hay nơi chốn nào.

Các vị Thầy dạy về “tại đây bây giờ”, về “thực tại”, về “nền tảng” … thật sự chỉ là trò đùa của các vị để dẫn học trò dần dần vượt qua. Một trò đùa nghiêm túc.

Tam tổ Tăng Xán nói: “Đừng cầu chơn, chỉ cần dứt sở kiến”. Chỉ để cho những đám mây hư dối tan đi. Nếu không ôm giữ hư dối, trí tuệ sẽ tự nhiên chiếu.

Kinh nói “Nếu có một chút tri kiến về chân, sẽ rơi vào lầm lỗi”. Nếu tạo ra một sự hiểu biết về chân lý, liền bị kẹt trong vũng nước bùn. Ngay lúc biết, cái biết trở thành nhị nguyên, và ngay lúc trở thành nhị nguyên, nó không còn là thực tại.

Chỉ “trống không, không biết”.

Chú thích

  1. ở đây là Thiên hà

Bình luận


Bài viết liên quan

  1. PHIM TÀI LIỆU KHOA HỌC BBC VỀ CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA
  2. VUI THAY PHẬT RA ĐỜI

Bài viết khác của tác giả

  1. PHẬT GIÁO VIỆT NAM VỚI TUỔI TRẺ
  2. CÚNG HOA
  3. NHỮNG BÀ MẸ PHẬT

Bài viết mới

  1. TRAO MỘT LỜI KHEN
  2. CÁI NHÌN CỦA NGƯỜI KHÁC CÓ THỂ CỨU CHỮA HAY GIẾT CHẾT TA
  3. HẠNH PHÚC VÌ BIẾT ĐỦ