NGUYỄN THẾ ĐĂNG
Giáo dục Phật giáo – cũng chính là Phật giáo – đã có mặt ở Việt Nam từ ngày chúng ta chưa lập quốc. Sự dạy và học này trong quá khứ đã tạo nên hình dáng của một dân tộc Việt, trong đó có những thời đại vinh quang nhất. Tiếc thay từ cuối thế kỷ XIX và thế kỷ XX, khi bị Pháp đô hộ và sau đó là chiến tranh liên tục, nền giáo dục đó đã rời rã khá nhiều. Những vấn nạn đủ loại trong xã hội đã nói lên nền tảng văn hóa chúng ta (trong đó giáo dục Phật giáo đóng vai trò lớn) đang yếu kém. Chỉ nói một điều thôi: tai nạn giao thông. Càng ngày càng có thêm nhiều biện pháp kỹ thuật, luật lệ, kiểm tra, trừng phạt… nhưng tai nạn giao thông chết người vẫn không giảm. Đây là một vấn nạn xã hội mà nguyên nhân sâu xa là văn hóa kém: không tôn trọng kỷ luật công cộng, lấn đường, không nhường đường, xe không bảo đảm mà vẫn chạy… đó là sự không tôn trọng sự sống của người khác (điều thứ nhất của giới luật Phật giáo), thiếu lòng nhân từ, tính tham lam bất chấp nhân nghĩa, tính hiếu chiến bạo lực, không làm chủ được những cảm xúc tiêu cực trong lòng. Tóm lại, những tai nạn phần nhiều cho thấy một nhân cách kém cỏi, thiếu tu dưỡng, kém văn minh.
Chính sự giáo dục Phật giáo làm ổn định xã hội. Người ta thôi biểu hiện những cái tiêu cực trong mình ra ngoài xã hội, người ta thôi xả những chất độc (đạo Phật gọi các thứ tiêu cực là “độc”, như tham sân si là “ba thứ độc”) trong tâm thức mình ra ngoài làm ô nhiễm tinh thần xã hội. Trái lại, người ta đưa ra những cái tích cực vào trong đời sống để xã hội được chữa lành, để tốt đẹp hơn. Những cái tích cực đó là từ bi hỷ xả, lòng nhân ái khoan dung, ánh sáng trí tuệ, các việc làm phước đức, sự tự chế, tự điều phục, sự bình an, sự tinh tấn cho điều thiện và sự bài trừ cái xấu ác…
Nhìn ở tầm thế giới, các nhà văn hóa lớn của thế kỷ XX đều công nhận đang có một cuộc khủng hoảng văn hóa toàn cầu và không ít người trong số đó rơi vào một quan kiến hư vô chủ nghĩa (như phần nhiều các triết gia hậu hiện đại), với những thái độ và lời lẽ khá cay đắng. Cay đắng nhưng yêu thương, vì có ai ở mức độ cao của nhân loại mà không yêu thương con người trên trái đất lẻ loi này. Nhưng có lẽ hầu hết đều chia sẻ với André Malraux một niềm hy vọng: “Thế kỷ XXI là thế kỷ tâm linh, thế kỷ của tôn giáo”.
Cuộc khủng hoảng ấy chúng ta thấy rõ trên bình diện vật chất: chiến tranh, khủng bố, khí hậu trái đất nóng lên, tầng ozone thủng mỗi năm thêm lớn, các nước GDP càng cao thì ly dị càng nhiều, ngân sách quốc phòng các nước mỗi năm càng lớn, hố cách biệt giàu nghèo trong một nước và giữa các nước với nhau, tội phạm ở tù càng thêm đông, tự tử… Tất cả nói lên một tâm thức bất định, không vững vàng (bởi thế mà có khái niệm “phát triển bền vững”), chưa đủ trưởng thành, chín chắn để sử dụng một hạ tầng kỹ thuật đã phát triển cao. Những cuộc cách mạng vật chất, những chính sách kinh tế chính trị từ thế kỷ XIX cho đến cuối thế kỷ XX như đã bão hòa, những nhà kỹ trị sắp xếp cách nào thì cũng không giải quyết được điều căn bản: thế giới bất an thì tâm thức con người bất an. Chưa bao giờ thế giới cần một cuộc cách mạng tinh thần, một cuộc cách mạng tâm linh như vậy.
Đã đến lúc con người cần tiếp xúc với Phật giáo, cần áp dụng Phật giáo vào đời sống mình như một số đáng kể người Tây phương bắt đầu làm. Đã đến lúc thay vì chỉ áp dụng những khảo sát nghiên cứu tinh vi cho sự vật và thế giới bên ngoài (mà khoa học đã nhận ra là luôn luôn có sự tham dự của phía chủ thể con người chứ không thể hoàn toàn khách quan) thì hãy áp dụng chúng vào chính tâm thức con người. Con người cần hiểu nhiều về tâm thức của chính nó, tâm thức chính là cái quy định hiện hữu làm người và thế giới của nó. Tất cả khổ đau và hạnh phúc của con người nằm ở đó. Tất cả bế tắc khủng hoảng và con đường mở thoát của thế giới nằm ở đó. Đã đến lúc truyền thống Tây phương gặp gỡ với Đông phương: “Thiên đường chỉ có trong lòng người”.
Chính vì tâm thức con người bất định, khiếm khuyết, hỗn loạn và thắt gút bên trong mà có ra bao nhiêu vấn nạn cho con người hiện nay trên thế giới. Cho nên trước khi thương lấy và lo cho thế giới và người khác, hãy thương lấy và lo cho chính mình, tâm thức của chính mình. Làm sao có thể có giải pháp, có hòa giải, hài hòa, hài lòng giữa mình với người khác, giữa mình với thế giới, giữa mình với chính mình khi tâm thức còn bất định, còn chưa biết nó là cái gì, còn thù ghét, sân hận, kiêu mạn, đố kỵ và u ám rối loạn?
Sự tiến chậm (do hoàn cảnh hơn là do tự ý thức) của chúng ta về mặt kỹ thuật và vật chất so với thế giới Tây phương là một điều đáng buồn nhưng suy nghĩ trên một cục diện lâu dài lại là một điều may mắn. Chúng ta chưa tiến quá xa trong sự bế tắc văn hóa xã hội hiện đại của Tây phương (mà suốt thế kỷ XX họ vẫn chưa thoát ra được) với sự bất cân xứng trong tiến bộ giữa vật chất và tinh thần. Chúng ta bắt đầu phát triển với ý thức về sự cân bằng giữa vật chất và tinh thần ngay từ đầu. Và chắc chắn, để có một phát triển cân bằng và “bền vững” như vậy, vai trò của giáo dục Phật giáo là quan trọng, vì đó là gia tài truyền thống của chúng ta.