BÁO ÂN MẸ – MÓN NỢ CUỐI ĐÃ TRẢ

HELLMUTH HECKER

NYANAPONIKA THERA

Trích: Đại Đệ Tử Phật – Bước Thầy Con Theo; Nguyên tác: Great Disciplines of the Buddha; Hướng dẫn: Hòa thượng Kim Triệu Khippapanno; Soạn dịch: BBT. Thích Ca Thiền Viện

Đức Thế Tôn dạy: “Có hai hạng người không thể trả ơn được. Đó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, suốt một trăm năm, cho đến khi cha mẹ được trăm tuổi, nếu đấm bóp, thoa dầu, tắm gội, và dù tại đấy mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ cho mẹ, cho cha.”

May mắn thay, Ngài còn dạy thêm: “Ai có cha mẹ không có chánh tín, thì khuyến khích hướng dẫn cha mẹ an trú vào chánh tín; có cha mẹ theo ác giới, thì khuyến khích hướng dẫn an trú vào thiện giới; có cha mẹ gian tham, thì khuyến khích hướng dẫn an trú vào bố thí cúng dường; có cha mẹ theo ác trí, thì khuyến khích hướng dẫn an trú vào thiện trí. Làm được như vậy là đền đáp tròn đầy ân đức của mẹ cha.”

Những lời dạy ấy ắt hẳn luôn nằm trong tâm khảm của Sāriputta, một người con đại hiếu và một vị thánh hạnh nguyện cao thượng vô biên. Đó là vì cho đến lúc ngài sắp kết thúc kiếp sống cuối cùng, mẹ ngài – bà Rūpasārī – vẫn chưa có đức tin nơi Tam Bảo. Bà vẫn là một tín đồ bà-la-môn giáo trung kiên, lúc nào cũng đố kỵ, thù ghét Giáo Pháp của Đức Phật và các đệ tử của Ngài. Sāriputta sanh trưởng trong một gia đình bà-la-môn giáo. Ngài có ba anh em trai và ba chị em gái. Cả bảy anh chị em đều lần lượt xuất gia với Đức Phật và đắc thánh quả a-la-hán. Lúc lập gia đình, ba chị em gái mỗi người sanh một trai. Ba người con trai này cũng xuất gia, gia nhập Tăng chúng. Cứ thế, lần lượt từng người con, từng đứa cháu bỏ nhà ra đi, xa rời bà Rūpasārī, trở thành đệ tử Phật, lấy Tăng chúng làm thân quyến. Mây mù vô minh dày đặc bủa vây, sợi dây luyến ái ngày càng trói siết, vật vã trái tim bà. Có lẽ vì thế mà bà căm giận Đức Phật, nghi kỵ Pháp Bảo, thù nghịch chư Tăng.

Thấy mẹ như vậy, ngoài tình yêu thương của người con hiếu thảo, lòng ngài Sāriputta còn tràn ngập niềm bi mẫn trước vô minh lầm lạc và bất thiện nghiệp của mẹ. Đến cuối cuộc đời, ý muốn báo đền công ơn sanh thành dưỡng dục cho mẹ càng thôi thúc ngài hơn bao giờ hết. Dù sức tàn lực kiệt, ngài cũng quyết tâm trở về quê nhà, thăm mẹ lần chót để cứu độ mẹ thoát khỏi vòng đau khổ triền miên. Với quyết tâm ấy, sau khi được Đức Tôn Sư cho phép về quê hương để nhập diệt, ngài Sāriputta cùng ngài Cunda – người em trai và cũng là thị giả của ngài – dẫn năm trăm vị tỳ khưu trở lại làng Nālaka, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có người mẹ già còn lặn ngụp trong bể trầm luân.

Trên đường đi, Sāriputta lâm bệnh. Thế nhưng, từng bước, từng bước, với đôi chân yếu ớt, ngài vẫn kiên trì hướng về quê mẹ. Ngài đi suốt ngày, chỉ nghỉ ngơi lúc về khuya, và vì vậy ngài đã mang lại phước lành và niềm hoan hỷ cho bao nhiêu người được trông thấy và đảnh lễ ngài lần cuối trong cuộc hành trình bảy ngày từ Sāvatthi đến Nālaka. Trưởng lão Sāriputa và chư tăng về đến làng lúc trời sẩm tối. Lúc ngài dừng bước ở cây đa đầu làng, một người cháu của ngài đến đảnh lễ. Ngài nhờ cháu thông báo cho mẹ hay rằng ngài sẽ ở lại nhà bà một ngày, dặn bà sửa soạn căn phòng nơi ngày xưa ngài đã chào đời, và cung ứng chỗ trú ngụ cho năm trăm sa môn. Hay tin con về, bà Rūpasārī tự hỏi: “Vì sao ông ấy về? Vì sao yêu cầu ta cung cấp ngần ấy chỗ ở? Thời thanh xuân thì đi tu, chẳng lẽ khi tuổi già bóng xế muốn trở lại đời thế tục?” Thắc mắc nhưng bà vẫn sắp đặt như lời ngài Sāriputta yêu cầu, đốt đuốc soi đường, và mời Trưởng lão cùng chư tỳ khưu về nhà.

Chư tăng theo ngài Sāriputta vào sân nhà. Sau khi ngồi xuống trong căn phòng nơi mình đã chào đời, ngài truyền các đệ tử về chỗ tạm trú. Tuy nhiên, không ai rời bỏ ngài được vì lúc bấy giờ ngài đã hoàn toàn kiệt lực. Thân xác ngài phút chốc bỗng đau đớn tột cùng do chứng kiết lỵ phát tác, hoành hành. Ngài đi tả không ngừng. Các đệ tử của ngài kề cận, tận tụy tẩy uế, chăm sóc đỡ đần từng giây phút. Mẹ ngài thấy vậy, sanh lòng cảm kích chư vị. Khi ngài Sāriputta tạm yên nghỉ, bà cung thỉnh chư tỳ khưu về nghỉ ngơi nơi bà đã dọn dẹp sắp đặt trước. Và đó là sự cúng dường trong sạch đầu tiên trong đời mẹ ngài đã dâng đến chư tăng.

Theo dõi bệnh tình, biết con mình chỉ còn tàn lực, mẹ ngài đau xót trong lòng, không sao ngủ được. Bà đứng tựa trước cửa phòng mình, lo âu suy nghĩ. Đến nửa đêm, biết vị trưởng tử của Đức Phật sắp nhập diệt, tất cả chư thiên ở các cõi trời lần lượt xuống trần, viếng thăm và đảnh lễ bái biệt ngài. Từ châu thân các vị, ánh sáng liên tục chói ngời và hương thơm tỏa ngào ngạt phòng Trưởng lão Sāriputta.

Mẹ ngài đứng tựa cửa phòng mình trông qua phòng con nên nhìn thấy chư thiên và ánh sáng kỳ diệu này. Bà tự hỏi: “Ai đã đến đảnh lễ con trai của ta?” Bà đi đến cửa phòng ngài và hỏi ngài Cunda về bệnh tình của Trưởng lão. Cunda vào thưa Trưởng lão: “Thưa sư huynh, có đại tín nữ (upāsikā) đến viếng thăm.”

Sāriputta dịu dàng hỏi mẹ: “Sao giờ này mẹ chưa nghỉ ngơi, lại vào đây?”

“Mẹ đến thăm con, con yêu quý,” bà trả lời. “Này con, lúc nãy ai đã vào đây viếng thăm con đầu tiên?”

“Thưa mẹ, đó là Tứ đại Thiên vương.”

“Như vậy, con còn cao quý hơn các ngài ấy?”

“Họ chỉ là những vị hộ pháp. Từ khi Đức Phật đản sanh, họ là những vị cận vệ có sứ mệnh bảo vệ Ngài.”

Bà hỏi tiếp: “Sau khi họ đi rồi, vị kế tiếp đến thăm con là ai?”

“Thưa mẹ, đó là vua trời Sakka (Đế Thích).”

“Như vậy, con yêu, con còn cao quý hơn vua trời Sakka phải không?”

“Vua trời Sakka chỉ như một sa di thị giả của một sa môn. Khi Đức Thế Tôn từ cõi trời Đao lợi thuyết pháp trở về, ông đã kính cẩn mang y bát của Đức Thế Tôn rồi theo hầu và tiễn chân Ngài đến tận cõi trần.”

“Và khi vua trời Sakka đi rồi, ai đã đến thăm con mà hào quang tỏa sáng cả căn phòng?”

“Mẹ ơi, là ngài Mahā Brahmā, vị giáo chủ và thiên sư của mẹ đó.”

“Vậy thì con còn cao quý hơn giáo chủ Đại Phạm thiên Mahā Brahmā của mẹ sao?”

“Vâng, thưa mẹ, ngày Đức Tôn Sư chào đời, chính bốn vị Đại Phạm thiên đã đến đón đỡ bậc Thiên Nhân Sư trong một tấm lưới chói vàng rực rỡ.”

Nghe vậy, người mẹ bà-la-môn giáo tự hỏi: “Nếu oai lực của con trai mình đã như thế này thì oai lực Đức Tôn Sư của con ta còn hùng vĩ đến đâu nữa?” Nghĩ đến đây, bỗng dưng một niềm sung sướng hỷ lạc bừng dậy, dâng tràn khắp châu thân bà. Trưởng lão quán thấy được tâm tư của mẹ, ngài biết rằng đây chính là lúc để mang Pháp Bảo đến cho bà. Trìu mến mà nghiêm trang, ngài hỏi mẹ:

“Tín nữ đang nghĩ gì?”

“Mẹ đang nghĩ,” bà trả lời, “nếu con trai của mẹ phước hạnh giới đức như thế thì phước hạnh giới đức của Thầy con còn vĩ đại đến đâu.”

Ngài Sāriputta trả lời: “Trong giây phút Đức Tôn Sư chào đời, đêm Ngài xuất gia lìa bỏ đời thế tục, khi Ngài thành đạo, và lúc Ngài chuyển Pháp luân lần đầu tiên, cả hàng vạn thế giới đều chấn động. Không một ai có được giới hạnh, an trụ, trí tuệ, cũng như sự thuần thục và nhận thức Chân Lý giải thoát vĩ đại sánh bằng Ngài.”

Rồi trước khi kết thúc kiếp sống cuối cùng, ngài Sāriputta đem hết tâm lực của mình giảng giải cặn kẽ cho mẹ về ân đức của Đức Thế Tôn qua mười danh hiệu Phật: “Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.” Và như thế, ngài mang Pháp Bảo đến cho thân mẫu qua các phẩm hạnh của Đức Phật.

Khi bài pháp của người con thân yêu chấm dứt, người phụ nữ bà-la-môn phát chánh tín trong sạch, mạnh mẽ và thành kính nơi Tam Bảo. Bà đắc quả nhập lưu, nhập dòng thánh.

Vào lúc đó là buổi rạng đông. Ngài Sāriputta truyền Trưởng lão Cunda triệu tập chư tăng. Khi chư vị đã tề tựu, ngài dạy Trưởng lão Cunda đỡ ngài ngồi dậy. Rồi ngài nói cùng tất cả:

“Đã bốn mươi bốn năm huynh cùng sống và du hành với chư hiền đệ. Nếu huynh đã có một hành vi hay lời nói nào không vừa ý chư hiền đệ, xin hãy tha thứ cho huynh.”

Chư tăng đồng trả lời: “Bạch ngài, đại sư huynh! Mặc dù chúng đệ luôn theo ngài như hình với bóng, nhưng chẳng bao giờ – dù chỉ một lần hay một mảy may – ngài khiến cho chúng đệ buồn lòng. Nhưng nếu chúng đệ có lỗi lầm gì, xin ngài hãy tha thứ.”

Sau đó, vị trưởng đệ tử của Đức Phật sửa y áo chỉnh tề, nhẹ nhàng nằm xuống phía bên phải của ngài. Rồi, cũng như Đức Tôn Sư trong giờ phút nhập Niết bàn Parinibbāna, ngài Sāriputta nhập vào và lần lượt ra khỏi các tầng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền sắc giới và các tầng thiền vô sắc giới. Kế đến ngài lại nhập từ sơ thiền đến tứ thiền. Tức khắc sau khi xuất tứ thiền, cũng là lúc vầng thái dương ló dạng ở đường chân trời, ngài nhập diệt, không bao giờ còn trở lại bể trầm luân sanh tử luân hồi nữa. Hôm ấy là ngày trăng tròn tháng Kattika, tức tháng mười/mười một dương lịch, đúng năm tháng trước ngày Đức Phật nhập diệt. Ngài Sāriputta thanh thản ra đi sau khi làm tròn được bổn phận cao quý nhất của một người con hiếu thảo, là hướng dẫn được đấng sanh thành – lúc còn tại thế – vào lối sống trong sạch thanh cao của người con Phật. Phút cuối của cuộc đời, hướng dẫn được mẹ “an trú vào thiện trí”, ngài đã đền đáp trọn vẹn ân điển đầu tiên của cuộc đời: ân của mẹ. Phút cuối của cuộc đời, ngài Sāriputta ra đi ở trong căn phòng mẹ đã cho ngài chào đời. Hết thảy nghĩa ân đã tròn đầy.

Từ nay vì “không còn sanh nên không còn diệt” nữa. Ngài mãi mãi không còn phải vất vả đi về trong cõi trầm luân. Đã đến “bờ bên kia”!

Tang lễ của ngài Sāriputta được cử hành ở làng Nālaka suốt một tuần, với sự thành kính tham dự của chư tăng, chư thiên, và dân chúng. Sau đó là lễ trà tỳ. Suốt đêm hỏa thiêu nhục thân của ngài, các vị sa môn thuyết giảng Giáo Pháp cho toàn thể thính chúng. Rồi Trưởng lão Anuruddha dập tắt đóm lửa hỏa đàn cuối cùng bằng nước thơm. Trưởng lão Cunda thu thập xá lợi của ngài và đặt trong một bọc vải. Trưởng lão Cunda nghĩ: “Ta không thể trễ nãi thêm chút nào nữa. Ta phải quay về bạch lên Đức Thế Tôn rằng anh của ta, sư huynh của ta, Trưởng lão Sāriputta, vị tướng quân của Giáo Pháp đã nhập diệt.” Rồi Trưởng lão Cunda nhanh chóng mang y bát và xá lợi của ngài Sāriputta trở về Sāvatthi. Trọn quãng đường về với Đức Bổn Sư, Trưởng lão chỉ dừng bước, tạm nghỉ vào lúc về khuya.

Bình luận


Bài viết liên quan

  1. ĐỨC PHẬT DẠY VỀ CÔNG ƠN CHA MẸ
  2. KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU
  3. KINH BÁO ĐÁP CÔNG ƠN CHA MẸ

Bài viết khác của tác giả

  1. A NAN ÐA LÚC PHẬT GẦN NHẬP NIẾT BÀN
  2. NẺO ĐƯỜNG RIÊNG – CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI THỊ GIẢ TRUNG THÀNH CỦA ĐỨC PHẬT
  3. A NAN ÐA ĐỐI VỚI NỮ GIỚI

Bài viết mới

  1. THẦY VÀ ĐỆ TỬ
  2. QUAN SÁT TÂM, ĐIỀU PHỤC TÂM
  3. ÁP DỤNG QUY LUẬT NỖ LỰC TỐI THIỂU