CÁI BIẾT BỊ BỎ QUÊN

RUPERT SPIRA

Trích: Bản chất của Tánh Biết; Việt dịch: Minh Tuệ Đỗ Minh.

Ảnh : RUPERT SPIRA
Đừng để bị cuốn vào, hút vào sự quyến rũ mê hoặc bởi những gì bạn đang nhận biết được, thay vào đó, hãy quan tâm đến kinh nghiệm của chính sự nhận biết.

Hãy nhận biết về sự nhận biết.

Mặc dù kinh nghiệm nhận biết không phải là một cái gì đó mà ta có thể nhận biết như một đối tượng, nhưng kinh nghiệm nhận biết vô tướng (không có tính đối tượng) này chắc chắn là đang được chúng ta nhận biết hay kinh nghiệm được.

Nếu có ai đó yêu cầu chúng ta liệt kê danh sách những đồ vật trong căn phòng mà chúng ta hiện đang ngồi, nhất định là ít người trong chúng ta có đề cập đến không gian trong bảng liệt kê thứ này thứ kia của mình, bởi vì không gian không thể được thấy giống như cách chúng ta nhìn thấy cái bàn, cái ghế, quyển sách hay máy laptop. Tuy nhiên, chúng ta không thể khẳng định rằng không gian không được chúng ta kinh nghiệm.

Giống như không gian, nói một cách tương đốinhận biết hay chính tự cái biết không có phẩm chất hay đặc tính của đối tượng. Chính vì bản chất vô tướng này mà kinh nghiệm nhận biết hay chính cái biết thường bị phớt lờ hay bị bỏ quên.

Thực ra thì hầu hết mọi người sống cả đời mà không hề thắc mắc rằng Ai hay Cái gì biết hay nhận biết được những kinh nghiệm của mình, hay làm thế nào mà những kinh nghiệm lại có thể có mặt được.

Trong những cuộc hội thảo ở Châu Âu và Châu Mỹ, tôi đã từng hỏi hàng ngàn người rằng cha mẹ, thầy giáo, giáo sư của họ có bao giờ hỏi họ câu hỏi, ai hay cái gì biết hay nhận biết được kinh nghiệm của họ hay không, và không một ai đưa ra câu trả lời khẳng định ‘có’ cả.

Thật khó mà tưởng tượng rằng một họa sĩ chuyên vẽ phong cảnh dùng cả đời mình để hành nghề giữa thiên nhiên mà không hề ghi nhận được rằng ánh sáng luôn chiếu lên cảnh vật và làm cho mọi vật được hiện lên.

Và tuy vậy, hầu hết mọi người đều không nhận ra được và xem xét đến Cái Biết hay Cái Tâm là cái mà làm cho mọi tri thức và kinh nghiệm được hiển lộ, được nhận biết.

* * *

Hầu hết chúng ta bị hấp dẫn, bị lôi cuốn bởi nội dung của những kinh nghiệm như suy nghĩhình ảnhcảm xúccảm giác và tri giác của các giác quan đến nỗi chúng ta đã bỏ qua việc biết mà với nó chúng ta biết được mọi tri thức và kinh nghiệmChúng ta không chú ý đến kinh nghiệm đơn giản của nhận biết luôn luôn có mặt, không bao giờ thay đổi nơi cái nền hậu cảnh của tất cả mọi kinh nghiệmChúng ta lờ đi chính Cái Biết. Chúng ta bỏ quên việc biết đơn giản của bản thể tự tri tự biết của chính chúng ta.

Nói cách khác, chúng ta đã quên đi chúng ta thực sự là ai hay bản chất cốt lõi của chúng ta là gì và thay vào đó chúng ta đã lầm lẫn cho mình là sự tập hợp của những suy tư, hình ảnh, ký ức, cảm xúccảm giác hay cái thấy, cái nghe, . . . của các giác quan. Do sự phớt lờ này, sự bỏ qua này, sự quên lãng bản chất của mình là kinh nghiệm biết hay chính là cái biết, chúng ta đã cho phép bản thể nhận biết nền tảng của mình bị trộn lẫn với những phẩm chất và sự giới hạn của những kinh nghiệm khách thể.

Giống như một màn hình bị trộn lẫn, hòa lẫn với những phẩm chất của mọi thứ trong bộ phim và kết quả là có vẻ màn hình như đã trở thành một phong cảnh, một cánh rừng, cũng vậy, cái biết vô hạn, vĩnh hằng bị hòa trộn với những kinh nghiệm khách thể và bị lạc mất luôn trong chúng, kết quả là có vẻ như cái biết đã trở thành một cái biết giới hạn, tạm thời – cái tâm trí hữu hạn, cái ngã biệt lập hay bản ngã. Nghĩa là, chúng ta đã quên mất mình thực sự là ai.

Nói cách khác, tâm trí tin rằng cái biết có chung giới hạn và số phận của thân thể này. Sự trộn lẫn, hòa lẫn này của cái biết với những thuộc tính và giới hạn của thân thể tạo ra một cái ngã tách biệt hay bản ngã mà hầu hết mọi người đều tin vào nó và cảm thấy mình chính là nó.

Như vậy, cái ngã biệt lập hay bản ngã là kết quả tất yếu của việc quên lãng, việc bỏ qua, việc phớt lờ cái Chân Ngã* thực sự và duy nhất của Cái Biết vô hạn, vĩnh hằng, hay nếu nói bằng ngôn ngữ tôn giáo, đó chính là sự quên lãng cái Hiện Hữu Vô Hạn của Thượng Đế.

(*Từ ‘Chân Ngã’ trong ngữ cảnh này không ám chỉ một thực thể  hay ‘một’ cái ngã nào đó. Tôi đang sử dụng từ phổ biến này để chỉ đến cái mà chúng ta có vẻ đang là và dung nó để nói về sự hiện hữu cốt lõivô đối tượng và tự biết của chúng ta)

Mặc dầu như vậy, bản thể thật sự của Cái Biết vô hạn, vĩnh hằng nơi chúng ta không bao giờ hoàn toàn bị quên hay bị lu mờ bởi những kinh nghiệm khách thể. Dù cho những kinh nghiệm thuộc đối tượng bên ngoài có thể đã làm cho chúng ta xao động, tê liệt thể nào đi nữa, thì trí nhớ về cái bất tử vĩnh hằng của chúng ta vẫn chiếu sáng bên trong nó như là sự khát khao để được hạnh phúchay nói theo ngôn ngữ tôn giáo, đó là sự khao khát về Thượng Đế của chúng ta.

Khi tôi nói, ‘Chúng ta không quan tâm đến kinh nghiệm đơn giản của nhận biết’, tôi không muốn ám chỉ rằng ‘chúng ta’ là một thực thể, còn kinh nghiệm nhận biết là một thực thể khác. Đó chỉ là cách nói mà thôi. Cái ‘tôi’ nhận biết – là cái mà tôi muốn nói đến khi chúng ta nói ‘Tôi đang nhận biết’- cũng là cùng một cái ‘Tôi’ mà biết tôi đang biết.

Cái ‘Tôi’ được nhận biết chính là cái ‘Tôi’ biết. Mặt trời chiếu sáng chính là mặt trời được chiếu sáng. Chỉ cái biết nhận biết được cái biết. Chỉ nhận biết nhận biết được sự nhận biếtVì vậy, cái ‘chúng ta’ đã bỏ quên kinh nghiệm nhận biết, hay sự hiện hữu của cái biết; chính cái biết rõ ràng đang không để ý hay lãng quên chính nó.

Chính màn hình tự-biết của cái biết, trên đó những màn kịch diễn của kinh nghiệm đang xảy ra và từ đó chúng được tạo ra, trở nên bị cuốn vào những nội dung khách thể mà nó đã kinh nghiệm, đến nỗi nó dường như tự đánh mất chính mình và, kết quả là, đã bỏ qua hay quên bẵng đi sự hiện hữu của chính nó, giống như tâm trí của người mơ tự đánh mất chính mình trong giấc mơ của riêng nó lúc ban đêm.

Tuy nhiên, việc biết, sự nhận biết hay chính cái biết thực sự thì không bao giờ bị che mờ bởi những kinh nghiệm cả, như màn hình không bao giờ bị che mờ bởi một bộ phim. Giống như màn hình vẫn hiện hữu trong suốt bộ phim, cũng vậy, việc biết, sự nhận biết hay chính cái biết vẫn nhận biết được chính nó xuyên suốt trong mọi kinh nghiệm.

Chúng ta nhìn thấy phong cảnh hay nhìn thấy màn hình tùy thuộc vào cách chúng ta nhìn, không phải là những gì được chúng ta nhìn thấy. Đầu tiên chúng ta thấy phong cảnh; sau đó nhận ra màn hình; rồi thấy màn hình như là phong cảnhTrước tiên chúng ta chỉ thấy sự đa dạng và phong phú của những đối tượng; sau đó nhận ra sự hiện hữu của cái biết; rồi thấy được cái biết như là toàn thể của những kinh nghiệm khách thể. Đây là điều mà những người đạo Sufi muốn ám chỉ khi nói rằng, ‘Chỉ có gương mặt của Thượng Đế.’

Và đây cũng là điều mà Ramana Maharshi ám chỉ khi Ngài nói rằng, ‘Thế giới là không thực; chỉ có Brahman là thực; Brahman là thế giới.’ Từ góc nhìn này, kinh nghiệm không còn che mờ cái biết nhưng đang sáng lên cùng với nó. Cái được biết đang sáng lên cùng với cái biết.

Sự che mờ, sự vô tâm hay sự quay lưng khỏi cái biết được xem như là ‘tội lỗi nguyên thủy’ trong truyền thống Cơ Đốc giáo và là ‘sự vô minh’ trong truyền thống Vệ Đà. Từ Hebrew thường được dùng nhiều nhất để dịch chữ ‘tội lỗi’ là chata’ah, nghĩa đen là ‘bỏ lỡ mục tiêu’ .

Tội lỗi nguyên thủy, trong văn cảnh này, nghĩa là sự bỏ lỡ, bỏ qua hay phớt lờ nhân tố cốt lõi của kinh nghiệm – là Tánh Biết hay Bản Tâm, hay Sự Hiện Hữu Vô Cùng của Thượng Đế. Như vậy, trong thuật ngữ tôn giáotội lỗi chính là sự quay lung với Thượng Đế.

Tương tự, trong tiếng Sanskrit, ngôn ngữ gốc của Vedanta, từ Avidya thường được dịch là ‘vô minh’, ‘tà kiến’ hay ‘tà tư duy’. Trong ngữ cảnh này, vô minh không phải là sự ngu dốt, theo cách hiểu thông thường, mà đúng hơn là sự phớt lờ của cái biết, nghĩa là, cái biết đang phớt lờ, đang bỏ qua hay đang quên chính nó.

Với sự che mờ này, sự phớt lờ và giới hạn này của cái biết đã làm cho nó bị co rút lại trở thành một cái tâm trí hữu hạn, một cái ngã tách biệt hay bản ngã, sự an lạc và đầy đủ vốn có sẵn cũng bị che mờ, mặc dù bên trong chúng vẫn vang vọng như một ký ức hoài niệm mà nó hằng khát khao. Sự khát khao an lạc và hạnh phúc là phẩm chất được thấy rõ  của cái ngã hay bản ngã tách biệt.

Như vậy, sự quên lãng bản chất chân thật của mình là nguồn gốc của mọi đau khổ tâm lý, và ngược lại, sự nhớ lại chính mình – nhớ lại và nhận ra chính mình lầ cái biết – là nguồn gốc của an lạc và hạnh phúc mà tất cả mọi người đều khao khát có được.

Khi mà cái ngã biệt lập hay bản ngã đã mệt mỏi với những khả năng tìm cầu sự an lạc và hạnh phúc nơi những kinh nghiệm khách thể, thì nó có thể sẽ mở ra những khả năng tiếp cận với an lạc và hạnh phúc bên trong chính nó. Trực giác này là khởi đầu cho sự trở về của cái ngã tách biệt với bản thể vốn an lạc và viên mãn vô điều kiện của tánh biết thuần tịnh, và như vậy, đó chính là giải pháp cho cuộc tìm kiếm của chính nó.

Tất cả những gì mà cái ngã tách biệt cần làm để nhận ra được bản chất cốt lõi của chính nó và tiếp cận được niềm an lạc và hạnh phúc đã có sẵn là nhận ra bản chất của cái biết thuần khiết không bị điều kiện hóa hay giới hạn bởi những kinh nghiệm có tính đối tượng. Nói cách khác, cốt lõi của nó phải được thấy rõ ràng. Nghĩa là, cái biết phải thấy chính nó một cách rõ ràng, và để thấy được chính mình rõ ràng nó phải ‘nhìn vào’ chính nó.

Tuy nhiên, giống như tia sáng từ một cây đèn pin có thể được hướng về một đối tượng nhưng không thể hướng về bóng đèn từ đó nó phát ra, cũng vậy, cái biết, trong hình tướng của sự chú ý của tâm trí, có thể hướng ánh sáng của sự biết đến những kinh nghiệm khách thể nhưng không thể hướng chính nó về phía chính nó.

Chúng ta không thể hướng tâm trí về kinh nghiệm của nhận biếtchúng ta chỉ có thể hướng tâm trí đi ra khỏi nó mà thôi. Vì vậy, sẽ chính xác hơn khi nói rằng cái biết phải thư giãn sự tập trung chú ý của nó, hay tự gỡ rối để tách ra những đối tượng của kinh nghiệm, từ đó cho phép sự chú ý quay trở lại hay nghỉ ngơi trong chính nó.

Như vậy, hình thức cao nhất của thiền không phải là hoạt động được làm bởi tâm trí. Nó là một sự thư giãn, rơi ngược trở lại hay để tâm trí chìm vào cội nguồn hay cốt lõi của cái biết thuần khiết mà từ đó nó đã khởi sanh lên. Sự trở về của cái biết với chính nó, sự nhớ lại chính nó – nhận biết sự nhận biết – là tinh túy của thiền hay cầu nguyện, và là con đường trực tiếp đưa đến an lạc và hạnh phúc bền vững lâu dài.

Cái ngã biệt lập hay bản ngã giống như trái bóng cao su đang bị bóp thắt lại. Tất cả những gì đối với trái bóng đang bị bóp lại là trái bóng ban đầuTuy nhiên, bóp quả banh sẽ làm nó co lại và tạo ra sự căng thẳng, và vì căng thẳng nên nó luôn luôn tìm cách  phồng ra để về lại tình trạng nguyên sơ, thoải mái của nó. Trái bóng bị bóp không làm gì cả; chính trạng thái thoải mái tự nhiên của trái bóng căng đầy sẽ đưa trái bóng đang bị co rút về lại với tình trạng ban đầu của nó.

Tương tự, cái ngã tách biệt là sự giới hạn hay co rút của cái biết vô hạn. Tất cả những gì có đối với cái ngã biệt lập là cái ‘chân ngã’ thực sự và duy nhất của cái biết thuần tịnh, nhưng sự co lại thành một thực thể giới hạn của nó tạo ra sự căng thẳng luôn luôn có khuynh hướng tìm lại trạng thái tự nhiên và tự tại ban đầu. Lực kéo này được cảm nhận bởi cái ngã biệt lập như là ước vọng hạnh phúc hay niềm khao khát Thượng Đế.

Thực ra, không phải là cái ngã tách biệt tầm cầu hạnh phúc hay trở về trạng thái tự nhiên, thư giãn của nó. Chính lực kéo hay sự nhớ lại trạng thái tự nhiên đã kêu gọi cái ngã tách biệt trở về lại với tình trạng cố hữu của cái biết vốn đã thảnh thơi và an lạc của nó.

Chuyển động của cái ngã biệt lập hướng về bản chất của nó là cái biết thuần tịnh, từ góc nhìn của cái ngã biệt lập, chuyển động đó được cảm nhận như là lòng ham muốn hay nỗi khát khao; lực kéo của cái biết vốn đã an lạcthảnh thơi đối với sự co lại của cái ngã biệt lập là sức hút của ân sủng.

Tình yêu của chúng ta dành cho Thượng Đế là tình yêu của Thượng Đế dành cho chúng ta.

Bình luận


Bài viết liên quan

  1. BẢN CHẤT CỦA TÁNH BIẾT
  2. CÁI BIẾT KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT TRONG THIỀN TỨ NIỆM XỨ

Bài viết khác của tác giả

  1. CÁI BIẾT ĐƯỢC CỞI TRÓI
  2. BẢN CHẤT CỦA TÁNH BIẾT

Bài viết mới

  1. BẠN THÔNG MINH HƠN BẠN TƯỞNG
  2. NHỮNG YẾU TỐ LÀM NÊN SỰ CƯỜNG THỊNH CỦA ĐỜI TRẦN
  3. HƯƠNG GIỚI HẠNH