CÂY ROI VÀNG THẦN THÁNH

——-🍀🌞🍀——-
Trích: Trí Tuệ của Sự Từ Bi/ Đức Đạt Lai Lạt Ma & Victor Chan; Như Lôi dịch.- H.: Thế giới, 2022.
 
Ảnh: (nguồn: google hình ảnh)
——-🍀🌞🍀——-
13/11/2025
215 lượt xem

 

Tôi quen biết Matthieu Ricard đã hơn 20 năm. Chúng tôi gặp nhau lần đầu ở thủ đô Kathmandu (Nepal) khoảng giữa những năm 1980, khi anh đang là thị giả của Đức Dilgo Khyentse Rinpoche, một trong những thiền sư hàng đầu của Phật giáo Tây Tạng và cũng là thầy dạy pháp cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Các cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi không có gì ấn tượng, chỉ là một vài lần gặp mặt để đối chiếu các ghi chú về công trình mà chúng tôi đang theo đuổi. Lúc ấy tôi đang viết cuốn cẩm nang hành hương của mình, cuốn Tibet Handbook (Sổ tay Tây Tạng). Anh thì đang dịch một văn bản Tây Tạng sang tiếng Anh – The Life of Shabkar: The Autobiography of a Tibetan Yogin (Cuộc đời của Shabkar: Tự truyện của một hành giả du già Tây Tạng). Shabkar là một đạo sư thế kỉ XVIII, được xem là một trong những hành giả du già vĩ đại nhất Tây Tạng, người từng đến nhiều địa điểm hành hương được tôi mô tả trong cuốn sách của mình.

Nhiều năm qua đi, tôi kinh ngạc trước sự chuyển hóa của Ricard – từ một tu sĩ kinh viện, dè dặt trở thành một conngười tâm linh và có lòng quan tâm phi thường. Giờ đây anh có một khí chất rạng ngời khó lẫn. Nét mặt tươi tỉnh, thật thà của anh toát lên vẻ thân thiện, ngay cả lúc an tĩnh. Nụ cười của anh khiến những người đối diện bị thu hút, và ở anh tỏa ra một cảm thức mãn nguyện mãnh liệt thu hút mọi người dù không chủ tâm làm thế. Những người ngưỡng mộ anh nhiều vô kể.

Lúc mới 20 tuổi, Ricard đã được tuyển dụng với tư cách là một nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm di truyền học tế bào của François Jacob, nhà sinh vật học người Pháp lúc ấy vừa nhận Giải Nobel Y học (1965). Anh đã làm việc 6 năm và lấy bằng tiến sĩ ở đó. Cuộc đời Ricard có một bước ngoặt bất ngờ vào năm 1967, khi anh đến thăm thị trấn Darjeeling ở miền Bắc Ấn Độ và gặp một số đạo sư Tây Tạng tại đó. Anh đã nghĩ rằng họ là những thí dụ điển hình về một đời người viên mãn. Năm 1972, anh từ bỏ việc nghiên cứu về di truyền học và chuyển đến Ấn Độ để theo học với một số đạo sư trong nhóm ấy. Ricard cuối cùng đã tìm thấy điều đem lại ý nghĩa và định hướng cho cuộc đời anh. Anh đã hiểu ra rằng hành trình tìm kiếm hạnh phúc vững bền là một con đường đòi hỏi nỗ lực không ngừng trong việc rèn luyện tâm trí. Anh đã học được rằng bình an nội tâm và lòng yêu thương vị tha là những phẩm chất có thể đạt tới. Anh đã xuống tóc, thôi mặc chiếc quần jeans xanh để khoác lên chiếc áo tràng nâu đỏ, và đã trở thành một tu sĩ Phật giáo Tây Tạng.

“Cuối cùng thì tôi đã trải qua 40 năm ở Himalaya” anh bảo tôi. “Thoạt đầu, cuộc sống của tôi đơn giản lắm, rất tĩnh lặng, chỉ thiền và sống đạm bạc qua ngày”. Tất cả đã thay đổi vào một ngày năm 1979, khi một người bạn làm ở nhà xuất bản gọi và hỏi anh có muốn cùng viết một cuốn sách với cha anh, nhà triết học người Pháp nổi tiếng Jean-François Revel, hay không. Kết quả của cuộc đối thoại kéo dài 10 ngày ở Nepal ấy là cuốn The Monk and the Philosopher (Nhà sư và triết gia). Ngay lập tức, nó đã trở thành một cuốn sách bán chạy và được dịch sang 21 thứ tiếng.

“Khi cuốn sách viết chung với cha tôi ra mắt”, Ricard nói, “một nhà báo đã hỏi tôi rằng hối tiếc lớn nhất trong đời tôi là gì. Tôi nói tôi tiếc rằng mình đã không thể biến lòng từ bi mà bản thân đang gắng vun bồi trong tu tập thành hành động. Và đó chính là một khoảnh khắc chuyển hóa đối với tôi. Không lâu sau đó, tôi tạo ra một quỹ tài trợ, quyên tặng tất cả tiền bán sách của mình vào đó và bắt đầu thực hiện các dự án nhân đạo ở châu Á. Đời tôi bây giờ đã trở nên bận rộn hơn nhiều, nhưng tôi cũng khám phá ra sự viên mãn lâu dài đến từ việc giúp đỡ người khác”

Ricard và tôi đã phối hợp để thu xếp một cuộc gặp với Đức Đạt Lai Lạt Ma và một nhóm các nhà hoạt động nhân đạo ở Delhi vào tháng 1 năm 2011 về chủ đề xóa đói giảm nghèo. Đó là một sáng kiến đã gây được tiếng vang choRicard. Anh đang giám sát khoảng 40 dự án sức khỏe và giáo dục ở Tây Tạng, Nepal và Bắc Ấn Độ. Anh tập trung vào những vùng hẻo lánh nhất mà các tổ chức khác không có mặt. Quỹ viện trợ của anh giúp điều trị hàng trăm ngàn bệnh nhân mỗi năm và đưa được 15.000 trẻ em đến các trường học mà quỹ đã xây dựng.

“Thưa Đức Ngài, tôi được biết rằng hầu hết các tổ chức phi chính phủ sẽ biến mất trong vòng 10 năm nữa”, Ricard nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma trong khách sạn ở Delhi. “Tại sao ư? Vì lỗi con người. Những hạt cát sẽ khiến guồng máy ngưng hoạt động. Chúng tôi cố giúp đỡ người khác và bỗng dưng mọi thứ đi chệch hướng. Nạn tham nhũng. Thiếu minh bạch tài chính. Xung đột về cái tôi. Nhưng với tất cả chúng tôi đang hiện diện tại đây, chuẩn mực đạo đức cao thượng của Ngài là một hình mẫu thu hút mạnh mẽ. Chúng tôi không mong đợi Ngài bảo chúng tôi làm điều này điều kia, hoặc hãy bắt đầu dự án nào đó. Nhưng sự hiện diện của Ngài nhắc nhở chúng tôi hãy luôn luôn kiểm điểm lại động lực của mình, để chắc chắn rằng động lực ấy xuất phát từ lòng vị tha”.

Động lực là điều tối quan trọng với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi thức dậy mỗi ngày, thường là vào ba giờ rưỡi sáng, Ngài dành một khoảng thời gian đáng kể để định hình động lực. Mặc dù đã bước qua ngưỡng tuổi 70 và tích lũy được vô số giờ tu tập tâm linh, Ngài vẫn thường xuyên cảnh giác với nguy cơ rằng mình không tập trung vào các ý định theo một chiều hướng thích hợp. Ngài nhất quyết rằng mình sẽ chỉ giữ những ý nghĩ nhân từ trong tâm trí, và rằng mình sẽ phát ngôn và hành động thận trọng với ý hướng vị tha.

“Bạo lực là gì? Phi bạo lực là gì?”, Đức Đạt Lai Lạt Ma có lần đã hỏi tôi trong một cuộc phỏng vấn riêng với Ngài ở thị trấn Dharamsala. “Thật khó mà làm rõ được, vì nó liên quan đến động lực. Nếu chúng ta có động lực chân thành, với lòng từ bi và sự chu đáo trong tâm trí, dù chúng ta nói những lời khó nghe, dùng sức mạnh, thì những hành động này vẫn là phi bạo lực. Nhưng với động cơ tiêu cực, dùng cử chỉ thân thiện cùng những lời dễ nghe và nụ cười thật tươi, rồi cố lợi dụng người khác, thì đó vẫn là một loại bạo lực tồi tệ nhất. Vì động lực mà ra cả”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hết sức quan tâm theo dõi cuộc họp vì mục đích giúp đỡ người nghèo ở Delhi. Ngài rất ấn tượng với công tác nhân đạo của Matthieu Ricard. Ngài vui sướng khi thấy tu sĩ người Pháp đã thực hành điều Ngài xem là cốt lõi: chuyển cảm giác từ bi thành hành động cụ thể. Ngài thường tán dương những người đang làm việc hết mình để tạo ra sự khác biệt cho đời sống của những người khác, và Ngài kêu gọi các Phật tử Tây Tạng noi gương họ.Đức Đạt Lai Lạt Ma đặc biệt vui sướng khi thấy Ricard, bên cạnh lịch trình bận rộn để quản lí quỹ viện trợ, vẫn có thể duy trì công cuộc tu tập tâm linh của mình. Ngài gật đầu khi Ricard nói với các thành viên cuộc họp, “Tôi cố gắng duy trì sự dẻo dai để phục vụ bằng cách dành một vài tháng mỗi năm để một mình nhập thất ẩn cư. Tôi cố gắng cân bằng giữa trầm định chiêm nghiệm và hoạt động nhân đạo, củng cố cái này bằng cái kia. Khi khát vọng muốn giúp đỡ người khác đến từ sâu bên trong ta, thì ấy mới là cam kết đích thực. Vì bạn quan tâm sâu sắc tới phúc lợi của người khác, sự cam kết nhất định sẽ theo sau. Và sự chuyển hóa bản thân rất quan trọng. Nếu bạn có thể khơi sâu lòng đồng cảm và từ bi của mình, khả năng tạo ra sự khác biệt của bạn sẽ càng mạnh mẽ hơn”.

Một thành viên khác tham dự hội nghị, Amod Kanth, cựu cảnh sát ở Delhi, đứng lên nói, “Thưa Đức Ngài, tôi đã sáng lập một tổ chức tên là Prayas năm 1988. Chúng tôi đã đem chương trình giáo dục thay thế đến cho khoảng 50.000 trẻ em đường phố. Và chúng tôi sắp xếp chỗ ở, chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cho những trẻ em bị thiệt thòi. Cách đây chưa lâu, mỗi đêm, chúng tôi đã luôn phải đưa khoảng 50 đến 60 trẻ em lang thang, cơ nhỡ vào đồn cảnh sát. Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới, nhưng chúng tôi có đến 40% dân số đang sống trong cảnh cực kì nghèo khó.Chúng tôi có đến 60 triệu trẻ em không được đến trường bất kể thực tế rằng nền giáo dục của chúng tôi là miễn phí và phổ cập”.

Năm 2009, Quốc hội Ấn Độ đã thông qua một dự luật phổ cập giáo dục cho tất cả trẻ em từ 6 đến 14 tuổi. Đó là một quyết định bước ngoặt. Việc trước đây Ấn Độ không sẵn lòng đầu tư cho giáo dục phổ cập đã góp phần gây ra tỉ lệ biết chữ thấp đến sửng sốt. Ngày nay, hơn 35% cư dân Ấn Độ vẫn còn mù chữ và các số liệu chính thức ghi nhận rằng 50% trẻ em Ấn Độ không được đến trường.

“Thưa Đức Ngài”, Amod hỏi, “Ngài có lời khuyên nào cho các tổ chức thiện nguyện và tổ chức phi chính phủ không? Chúng tôi mong được Ngài chỉ dẫn và lãnh đạo trong một số vấn đề cụ thể ạ”.

“Lãnh đạo cần có tầm nhìn xa”, Đức Đạt Lai Lạt Ma lập tức trả lời. “Tôi không có tầm nhìn xa nào cho việc này. Nhìn ra điều còn thiếu thì dễ, nhưng làm sao để tạo ra sự thay đối thì rất khó. Tôi không phải chuyên gia. Tôi không có kinh nghiệm về việc giáo dục hay giúp đỡ người nghèo. Tôi chỉ quan sát từ xa. Lúc nào tôi cũng sẽ sẵn sàng nói: Tuyệt diệu, tuyệt diệu, tuyệt diệu! Chỉ có vậy thôi!”

Cả phòng vỡ òa trong tiếng cười, nhưng rõ ràng là những người tham gia thấy thất vọng. Tôi đã hi vọng Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ nói về những sáng kiến để khiến giáo dục trở nên dễ tiếp cận với người nghèo hơn. Tuy nhiên, tôi cũng biết rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn e ngại việc đưa ra các đề xuất hoặc các giải pháp cụ thê. Một phần lí do của sự e ngại này có thể đến từ bản tính khiêm tốn bẩm sinh của Ngài. Ngài tin mình không có những kinh nghiệm thực tế cần thiết, và Ngài không muốn nói về những điều Ngài ít có kiến thức.

“Cách mà tôi đã được giáo dục.”, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói tiếp, vẻ tinh nghịch hiện lên trong mắt Ngài. Ngài ngả người ra ghế và tôi có thể thấy Ngài đang ở trong một tâm thế pha trò. “Trong khoảng 7 hoặc 8 giờ đồng hồ, tôi chẳng có hề hứng thú với việc học, toàn chơi thôi”.

Khắp phòng lại rộn rã tiếng cười. “Có điều, từ khi còn bé, tâm trí tôi cũng khá nhạy bén, nên việc học khá dễ dàng”, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói. “Điều đó làm nảy sinh sự lười biếng. Thế nên thầy của tôi luôn kè kè bên mình một cây roi, màu vàng. Khi tôi thấy cây roi vàng kia, cây roi thần thánh dành cho môn đệ thần thánh Đạt Lai Lạt Ma, tôi lại học. Vì sợ. Dù mới ở độ tuổi ấy, tôi cũng biết là nếu tôi chịu học, sẽ chẳng có cơn đau thần thánh nào cả”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cười khúc khích với hồi tưởng ấy, rồi Ngài nghiêm túc trở lại. Ngài nói, “Cách tiếp cận của tôi là: Thực tế ngày nay, cả thế giới là một chỉnh thể. Mọi thứ đều là một phần trong ta. Thấu hiểu điều này giúp chúng ta giảm thiểu các xúc cảm tiêu cực. Thù ghét xuất hiện bởi vì chúng ta không đánh giá cao sự phụ thuộc lẫn nhau. Đau khổ xuất hiện bởi vì chúng ta không hiểu được sự phụ thuộc lẫn nhau này. Chúng ta gây hại, đôi khi không cố ý, bởi vì chúng ta tham muốn tiền của, quyền lực. Chúng ta nghĩ những thứ ấy sẽ khiến chúng ta hạnh phúc. Đây là sự nhầm lẫn tai hại. Hạnh phúc đích thực xuất phát từ sự bình an trong tâm trí. Cách duy nhất để có được hạnh phúc đích thực là hãy vị tha, hãy từ bi”.

Đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, cốt tủy của thế giới quan Phật giáo có thể gói gọn trong hai từ: phi bạo lực và phụ thuộc lẫn nhau. Phi bạo lực, với Ngài, không phải là sự thụ động; sự vắng mặt của bạo lực chỉ là một phần của nó. Chúng ta cần tích cực giúp đỡ người khác và chúng ta nên làm điều đó với một ý thức chân chính về lòng từ bi, chứ không phải thương hại. Ở mức tối thiểu, chúng ta không nên làm hại người khác. Không hại người khác là một sự mở rộng của ý niệm về sự phụ thuộc lẫn nhau. Bởi vì mọi thứ đều là một phần của chúng ta, hại người cũng chính là hại mình.

Một trong những chú giải yêu thích nhất từ xưa đến nay của tôi về chủ đề phụ thuộc lẫn nhau chính là:

Con người là một phần bị giới hạn trong không gian và thời gian của cái toàn thể, mà chúng ta gọi là “Vũ trụ”. Con người trải nghiệm bản thân, các tư tưởng và cảm nhận của mình như là thứ gì đó tách biệt với phần còn lại – một kiểu ảo tưởng thị giác trong ý thức. Ảo tưởng này là một loại nhà tù, bó buộc chúng ta vào những ham muốn cá nhân và tình cảm dành cho một vài người gần gũi với chúng ta nhất. Nhiệm vụ của chúng ta là phải giải phóng bản thân khỏi nhà tù này bằng cách mở rộng vòng từ bi của mình để đón nhận mọi chúng sinh và toàn thể giới tự nhiên trong vẻ đẹp của nó.

 Bạn có thể nghĩ rằng những lời này là do Đức Đạt Lai Lạt Ma nói. Nhưng không phải. Einstein đã viết chúng năm 1954.

“Cho nên, quan tâm đến người khác”, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với chúng tôi ở Delhi, “quan tâm đến một phần khác của thế giới, thực ra là quan tâm đến chính chúng ta. Bởi vì tương lai cá nhân phụ thuộc vào nhân loại như một toàn thể. Đó là thực tế mới – nền kinh tế, dân số, công nghệ cũng như môi trường toàn cầu. Chừng nào các bạn còn có cảm giác, còn có ý thức quan tâm đến sự an lạc của người khác, thì sẽ chẳng có chỗ cho lừa dối, cho lợi dụng, cho ức hiếp. Tất cả đều là một phần của bạn, tất cả đều là một phần của tôi.

Và điều rất quan trọng là phải phân biệt giữa hành động và người hành động. Chúng ta phải phản đối hành động xấu. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc chúng ta chống lại  người thực hiện hành động. Một khi một hành động ngừng lại, hành động khác xuất hiện, thì người đó vẫn có thể là bạn ta. Chính vì lẽ đó, hôm nay, Trung Quốc là kẻ địch; nhưng hôm sau, vẫn luôn luôn có khả năng trở thành bạn. Và chính vì lẽ đó, tôi chẳng hề có vấn đề gì khi tha thứ cho người Trung Quốc vì những điều họ đã làm với đất nước và nhân dân tôi”.