VÔ NIỆM, VÔ TƯỚNG, VÔ TRỤ

ĐƯƠNG ĐẠO

Trích: Pháp Bảo Đàn Kinh Giảng Giải – Phẩm Định Huệ; NXB. Thiện Tri Thức; 2016

? KINH

Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta từ xưa đến nay, trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.

? BÌNH GIẢNG

Vô niệm, vô tướng, vô trụ là ba điểm thiết yếu được giảng trong suốt cuốn kinh, vì chúng là ba tính cách của tự tánh hay bản tâm. Tướng là hình tướng, đặc tính của sự vật. Khi phân tích một sự vật cho đến những hạt nhỏ nhất, và nhỏ hơn nữa, chúng không còn cái gì cả, không có tướng nào cả. Vậy thì thấy tướng là một vọng thấy của tâm thức và chạy theo tướng là nguyên nhân của sanh tử luân hồi. Vô tướng chính là thật tướng của sự vật và của tâm. Vô tướng là bản tánh vốn sẵn không có không gian. Niệm là ý tưởng, khoảnh khắc. Khi phân tích một ý tưởng và một khoảnh khắc đến tận cùng, chúng ta không thấy có cái gì cả. Cho nên cho rằng ý tưởng và thời gian dù nhỏ nhất là có thật là một sai lầm. Vô niệm chính là thật tướng của niệm và của tâm. Vô niệm là bản tánh vốn sẵn không có thời gian. Trụ là sự bám trụ, trụ chấp. Vì thế giới, tức là tướng và niệm, không thật có cho nên không thể trụ vào đâu cả. Vô trụ là thật tướng của tâm và thế giới. Vô trụ là bản tánh vốn sẵn không có không gian và thời gian. Chính tướng, niệm và trụ, lỗi lầm của tâm, đã tạo ra thế giới sanh tử khổ đau. Các kinh thường nói, ‘‘tâm như con kén tự nhả tơ để trói buộc, giam nhốt mình’’. Thế nên bất cứ khi nào tâm không bị dính mắc, trói buộc vào tướng, niệm, trụ, khi ấy tâm rỗng rang bao la, thông suốt khắp, tâm ấy là giải thoát, là tánh Không (xem Phẩm Trí Huệ thứ 2). Tâm ấy là bản lai diện mục, khuôn mặt xưa nay của mỗi người. Tu hành là đưa tâm trở lại thực tướng của nó, bản tánh của nó, đó là vô tướng, vô niệm và vô trụ. Khi ấy tướng, niệm, trụ hòa vào bản tánh không có không gian không có thời gian, đây là giải thoát. Tướng vẫn có, niệm vẫn có, trụ vẫn có, không biến mất, nhưng tướng là vô tướng, niệm là vô niệm, trụ là vô trụ.

? KINH

Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng. Vô niệm là nơi niệm mà vô niệm. Vô trụ là bản tánh của con người.

Bản tánh ấy nơi thiện ác, xấu tốt thế gian, cho đến kẻ oán người thân, khi nói năng xúc phạm, châm chích, tranh cãi, đều xem là Không, chẳng nghĩ đến đáp trả oán hại. Ở trong niệm niệm chẳng nghĩ đến cảnh trước kia. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối nhau chẳng dứt thì gọi là buộc. Nơi các pháp niệm niệm chẳng trụ thì không có gì trói buộc. Ấy là nghĩa lấy vô trụ làm gốc.

? BÌNH GIẢNG

Bản tánh hay bản tâm là vô trụ.

Một người bình thường có thể hiểu điều này khi nhận thấy một ngày chúng ta có bao nhiêu ý tưởng hay niệm, mà tâm chúng ta chẳng bao giờ đầy. Các ý tưởng, các niệm cứ sanh khởi, ở đó, biến đổi, và tiêu tan trong tâm bao la. Tâm như bầu trời, như hư không mà những đám mây ý tưởng khởi hiện rồi tan biến.

Tâm vô trụ là tâm như bầu trời, như hư không mà không có một đám mây ý tưởng nào có thể trụ lại, có thể dính cứng vào. Nhưng tánh này, tâm này cần phải được ngộ. Bởi vì không có lý luận nào, hình dung nào của ý thức có thể tiếp cận nó, mà những đám mây của ý thức phải tan vỡ ra, để lộ một bầu trời vô trụ. Như ngài Huệ Năng khi thấy nó: ‘‘Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tánh vốn không động lay, nào ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp’’.

Chỉ một chữ vốn này, đây tất cả là Thiền tông, tất cả Đại Toàn Thiện, tất cả Đại Ấn. Có ngộ nghĩa là thường trực thấy biết cái nền tảng vô trụ này, rồi mới có thể thật tu, mới có thể hành theo một pháp môn phù hợp với mình, để cái thấy biết ấy thành viên mãn. Cho nên để ngộ, phải liên tục Chỉ, Quán, và Chỉ Quán đồng thời, hay Định, Huệ, Định Huệ đồng thời về chính bản tâm vô tướng, vô niệm, và vô trụ. Chánh niệm tỉnh giác về chính bản tâm, đây là Tâm niệm xứ trong Bốn niệm xứ. Cho tới lúc trực tiếp thấy biết bản tâm là gì, đó là đốn ngộ. Thấy biết trực tiếp và thường trực bản tâm, thì mới ứng dụng nó trong đời sống hàng ngày, đây là diệu tu. Khi chứng biết được tâm là vô trụ thì cũng chứng biết được các ý tưởng, các niệm cũng là vô trụ. Khi chứng biết nền tảng, không gian của những đám mây là bầu trời, bèn nhận ra các đám mây cũng vô trụ, không dính vào đâu cả và chúng như có sanh, trụ, dị, diệt, nghĩa là chúng vô tự tánh. Thấy biết các đám mây các niệm là vô tự tánh, nghĩa là không thể trụ, vô trụ, thì các đám mây, các niệm tự giải thoát chính chúng trong bầu trời tâm.

Nhục thân Lục Tổ Huệ Năng

? KINH

Thiện tri thức! Ngoài lìa hết thảy các tướng, gọi là vô tướng. Hằng lìa các tướng tức là pháp thể thanh tịnh. Ấy là lấy vô tướng làm thể.

? BÌNH GIẢNG

Tâm như viên pha lê trên mặt in hình các bóng. In hình được vì viên pha lê luôn luôn trong suốt. Người thường lo chạy theo, đồng hóa với các màu sắc bóng hình đó nên không thấy biết được viên pha lê.

Lìa được các tướng ở bên ngoài, không đồng hóa, không chạy theo, tức thời viên pha lê trong suốt hiển hiện. Viên pha lê không hề có các tướng, viên pha lê muôn đời là vô tướng.

Chỉ một chữ ‘‘lìa’’ thường được Lục Tổ nói đến này, mà thật tu thì cả đời cũng không dùng hết.

Cho nên chỉ lìa tướng, không nhìn theo nó nữa bèn tức thì đây là pháp thể hay pháp thân thanh tịnh. Bởi thế Kinh Kim Cương nói: ‘‘Thấy các tướng chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai’’.

Không nhìn thấy bóng, tức thì thấy viên pha lê. Không nhìn thấy tướng thì ngay đó là thấy tánh. Không nhìn thấy sóng bèn tức thì thấy đó là đại dương.

Thực hành Định Huệ là lìa tướng. Lìa tướng là thấy thật tướng của tướng là vô tự tánh, là tánh Không, thế nên tướng vốn tự lìa. Càng lìa tướng thì tâm càng trở về bản tánh của nó là tịch lặng và sáng soi. Cho đến lúc thấy tướng vốn là vô tướng, là lìa, là vô sở hữu, bất khả đắc cho nên toàn tướng là tánh. Đến đây mới là vô công dụng đạo, mới ‘‘nằm duỗi hai chân nghỉ’’. Viên ngọc lưu ly hoàn nguyên lại tính lặng sáng của nó, các tướng in hình trên nó hoàn toàn không còn ảnh hưởng, như trò chơi phản chiếu vô hại ở ngoài.

? KINH

Thiện tri thức! Ở ngay nơi cảnh mà tâm chẳng nhiễm, gọi là vô niệm. Ở ngay nơi niệm thường lìa các cảnh, chẳng nơi cảnh mà sanh tâm.

Nếu chỉ trăm việc chẳng nghĩ, diệt trừ hết các niệm, một niệm dứt hết thì chết, rồi thọ sanh nơi khác, đó là lầm to. Người học đạo cần phải suy nghĩ điều ấy. Nếu chẳng biết ý chỉ của pháp rồi tự mình lầm còn chưa hại mấy, lại khuyên dạy người khác, tự mê chẳng thấy lại chê bai kinh Phật.

Do vậy mới lập vô niệm làm tông.

Thiện tri thức! Thế nào là lập vô niệm làm tông? Chỉ vì người mê miệng thì nói thấy tánh mà nơi cảnh lại có niệm bèn khởi tà kiến, tất cả vọng tưởng trần lao từ đây mà sanh ra.

Trong tự tánh vốn không có một pháp gì có thể đắc. Nếu có chỗ đắc rồi vọng nói họa phước, đó là trần lao tà kiến. Thế nên pháp môn đây lập vô niệm làm tông.

? BÌNH GIẢNG

‘‘Vô niệm là nơi niệm mà vô niệm’’. Tâm vốn là vô niệm, như hư không. Các niệm sanh khởi từ tâm như hư không, trụ trong nó, rồi tan biến trong đó, nên các niệm cũng như hư không, bản tánh của các niệm cũng là vô niệm.

Tâm phải có các niệm, như thế mới sống, mới thông lưu. Nhưng với người tu phải thấy thật tướng của các niệm này là vô niệm, như thế mới có thể không bị các cảnh sanh tử làm ô nhiễm. Niệm mà ‘‘thường lìa các cảnh, chẳng nơi cảnh mà sanh tâm’’.

Vậy thì niệm này là thế nào? Niệm này là niệm của định huệ nghĩa là sự có mặt thường trực của định huệ. Định cho nên ‘‘nơi cảnh chẳng sanh tâm’’; huệ cho nên ‘‘thường lìa các cảnh’’. Niệm của định huệ là niệm của tịch chiếu, niệm của giác ngộ, niệm của tự tánh vốn giác, niệm của tánh giác, sống động phi thường mà không ô nhiễm.

Cho nên nơi niệm mà có duyên với cảnh, có tướng, có pháp để đắc, có tốt có xấu, có họa có phước, thì bèn có tà kiến, vọng tưởng, trần lao. Còn nơi niệm mà không có duyên sanh, không có một pháp gì có thể đắc, thì đây là niệm giải thoát, niệm vô sanh, niệm định huệ đồng thời.

? KINH

Thiện tri thức! Vô là không có sự gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có hai tướng, không có tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh Chân Như, Chân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như.

Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu chân như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay.

? BÌNH GIẢNG

Lục Tổ giảng rõ thêm về vô niệm. Có hiểu rõ mới có thể thực hành, ‘‘niệm niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo’’.

Vô niệm thì vô là không có hai tướng, không có trần lao phiền não. Thấy có hai tướng, có phân biệt thì trần lao phiền não bắt đầu. Thấy không có hai tướng là thấy tánh, thấy tất cả thuần là một tánh. Thấy thuần là một tánh thì thời gian không gian biến mất, đây là một nghĩa của chữ Đốn. Niệm là niệm bản tánh chân như. Niệm là nối kết thông lưu với bản tánh chân như. Cho đến lúc ‘‘ngược dòng toàn nhất’’ (Kinh Lăng Nghiêm) thì niệm chính là bản tánh chân như tự niệm, như sóng là đại dương tự khởi một cách tự nhiên. Sóng nào cũng là đại dương.

‘‘Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi’’, cho nên vấn đề là phải biết thật tướng, thật tánh của niệm là gì.

Ban đầu tu là xoay niệm về niệm bản tánh chân như, cho đến lúc ngộ được rằng niệm chính là bản tánh chân như tự niệm, niệm là cái dụng của bản tánh chân như. Không còn phải đè nén niệm, vật lộn với niệm mà niệm là dụng của bản tánh chân như nên niệm cũng vốn là giải thoát, cũng là chân như. Thấy được như vậy, tu được như vậy mới được tự do, luôn luôn thấy ‘‘thật tướng của tất cả các pháp’’, nghĩa là luôn luôn thấy cái ‘‘không có hai tướng’’, thấy chân như.

Khi đã đạt đến thể của bản tánh chân như, thì thấy rõ mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp, là diệu dụng của bản tánh chân như. Thế nên những kinh Đại thừa nói, ‘‘Bản tánh của sanh tử là Niết bàn’’.

Vô trụ, vô tướng và vô niệm chính là Không, Vô tướng và Vô tác (hay Vô nguyện) là ba cửa giải thoát chung cho cả Đại thừa và Thanh Văn thừa. Ba môn giải thoát ấy của tánh Không chỉ đạt được hoàn toàn ở Đệ bát địa, tương đương với quả A La Hán.

Nhưng Thanh Văn thừa chỉ chú trọng cái thể của Không, Vô tướng và Vô tác mà bỏ cái dụng. Đại thừa là cử động, nói nín, niệm khởi đều là Chân Như khởi dụng, đều là sự hóa hiện của Không, Vô tướng, Vô tác.

Dụng tức là thể, tướng tức là tánh, sanh tử tức Niết bàn, đây là Vô trụ xứ Niết bàn của Đại thừa.

? KINH

Thiện tri thức! Tự tánh chân như khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe hay biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chân tánh vẫn thường tự tại.

Thế nên kinh nói: “Hay khéo phân biệt tướng các pháp mà trong đệ nhất nghĩa chẳng động”.

? BÌNH GIẢNG

Tự tánh chân như giống như ngọn đèn. Khởi niệm là tự chiếu sáng. Ánh sáng ấy đi qua các cửa mở là các căn khiến các căn có được thấy nghe hay biết nhưng ánh sáng ấy chẳng dính nhiễm nơi căn và các cảnh. Ngược lại các cảnh chính là sự phóng chiếu của ánh sáng. Ngọn đèn và ánh sáng thường trụ chẳng động nên các cảnh được chiếu sáng cũng chẳng động. Đây là điều mà người thường bị mê lầm cho rằng thật có chuyển động.

Ánh sáng chân như chiếu ra thân tâm và thế giới, đây là ngọn đèn sáng định huệ.

Ánh sáng ấy khiến chúng ta phân biệt được tướng các pháp, nhưng tất cả đều ở trong đệ nhất nghĩa chân như mà chân như vốn chẳng động nên những ảnh chiếu của chân như – thân tâm và thế giới – cũng đều chẳng động.

Đây là điều phải thực chứng, phải được kinh nghiệm chứ không thể suy nghĩ bằng những lý luận, ví dụ của ý thức hữu hạn. Phải thấy rõ ràng rằng nếu không lọt được vào Vô tướng, Vô niệm và Vô trụ vốn có của tự tánh, thì thân khẩu ý có làm gì cũng tạo ra nghiệp, để tiếp tục trôi lăn trong sanh tử luân hồi.

Bình luận


Bài viết liên quan

  1. BÁT NHÃ TAM MUỘI
  2. TỰ TÁNH GIỚI
  3. TỰ TÁNH KHỞI DỤNG

Bài viết khác của tác giả

  1. BÁT NHÃ TÂM KINH THIỀN GIẢI – PHẦN DẪN NHẬP
  2. VỀ NGUỒN
  3. BỒ ĐỀ TÂM ĐỒNG VỚI CÔNG ĐỨC CỦA TẤT CẢ PHẬT PHÁP

Bài viết mới

  1. ÁP DỤNG QUY LUẬT NỖ LỰC TỐI THIỂU
  2. ĐẠT ĐƯỢC NHIỀU HƠN CHỈ VỚI NỖ LỰC TỐI THIỂU
  3. THỰC HÀNH BỒ ĐỀ TÂM