DÒNG ÂN SỦNG

SOGYAL RINPOCHE

Trích: Tạng Thư Sống Chết - The Tibetan BookOf Living And Dying; Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch; NXB. Thanh văn Hoa Kỳ 1992 và NXB. Xuân thu Hoa Kỳ 1996

Những câu chuyện về năng lực của lòng sùng kính và ân phước của bậc thầy không phải là những chuyện chỉ có trong quá khứ. Trong một con người như Khandro Tsering Chodron, bậc nữ đạo sư của thời đại chúng ta, ta có thể thấy được kết quả sự tu tập và sự sùng kính sâu xa đối với bậc thầy là như thế nào. Tính khiêm hạ, giản dị của bà, trí tuệ trong sáng của bà được mọi người Tây Tạng tôn kính, mặc dù bà cố hết sức ở lại trong bóng tối, không bao giờ xuất đầu lộ diện. Bà sống cuộc đời khổ hạnh ẩn cư của một hành giả tu thiền quán ngày xưa.

Tôi thường nghe Khandro nói nhiều lần rằng nếu liên hệ của bạn với thầy bạn được giữ thực sự trong sáng, thì mọi sự trong đời bạn sẽ tốt đẹp. Cuộc đời bà là điển hình cảm động nhất về điều này. Sự sùng kính đã làm cho bà thể hiện được tinh hoa của giáo lý, và tỏa chiếu cho người khác ánh sáng ấm áp của tinh hoa ấy. Khandro không giảng dạy một cách trịnh trọng, kỳ thực bà không nói nhiều; nhưng điều gì bà nói thường rõ rệt một cách sâu xa đến nỗi nó trở thành lời tiên tri. Lắng nghe bà tụng lên những lời kinh, hay thực tập thiền định với bà, bạn được cảm hứng sâu xa tận tâm. Ngay cả khi đi dạo với bà, hay chỉ ngồi với bà, ta cũng thấy như được tắm trong niềm hỷ lạc mãnh liệt của sự hiện diện ấy.

Vì Khandro rất dè dặt, và vì sự vĩ đại của bà nằm ở tính bình dị, nên chỉ có người nào thực sự trí tuệ mới thấy được bà là ai. Chúng ta sống trong một thời đại mà chỉ những người phô trương mình ra lại thường được thán phục nhiều nhất. Nhưng chính trong những người khiêm cung như Khandro, mà chân lý đang sống thực sự. Nếu Khandro có bao giờ đến giảng dạy ở Tây phương, bà sẽ là một bậc thầy toàn hảo, bậc nữ đạo sư vĩ đại nhất, người nhập thể được một cách huyền nhiệm toàn triệt, đức từ bi và trí tuệ của Tara – tâm bi mẫn có tuệ giác được thể hiện qua thân hình một nữ nhân – có năng lực chữa trị tâm linh. Nếu tôi phải chết, mà có Khandro tiếp nối, thì tôi sẽ cảm thấy tin tưởng và an tâm hơn bất cứ bậc thầy nào khác.

Tất cả những gì tôi thực hiện được đều là nhờ sùng kính các bậc thầy. Càng ngày tôi càng ý thức rõ với niềm úy phục rằng những ân sủng của các bậc thầy đang làm việc qua tôi. Tôi không là gì nếu không có sự ban ân của thầy, và nếu có điều gì tôi làm được, thì đấy là làm một nhịp cầu giữa bạn và các bậc thầy. Nhiều lần, tôi đã nhận thấy rằng khi tôi nói về các thầy tôi trong các buổi giảng dạy, thì lòng sùng kính của tôi gợi cảm hứng nơi những người nghe, và trong những giây phút kỳ diệu ấy tôi cảm thấy các thầy tôi đang hiện diện, đang ban ân phước và mở những trái tim các học trò tôi, cho họ thấy được chân lý.

Tôi nhớ ở Sikkim vào thập niệm 1960, sau khi thầy Jamyang tôi chết không bao lâu, Dilgo Khientse Rinpoche đang làm một loạt dài những lễ quán đảnh thuộc giáo lý của Padmasambhava, có thể kéo dài nhiều tháng.

Nhiều bậc thầy đang ở trong một tu viện trên ngọn đồi phía sau thủ đô Gangtok, và tôi đang ngồi với Khandro Tsering Chodron và Lama Chokden, phụ tá của thầy Jamyang Khientse và là một thầy nghi lễ.

Chính vào lúc ấy tôi kinh nghiệm được sự thật về cách làm thế nào một bậc thầy có thể truyền phúc lạc của tâm giác ngộ cho đệ tử (truyền tâm ấn). Một ngày, Dilgo Khientse Rinpoche giảng dạy về sự sùng kính và nói về thầy Jamyang Khientse, tuôn ra từ tâm ngài như dòng thác hùng hồn và đầy thi vị tâm linh. Khi nhìn thấy Dilgo Khientse Rinpoche và lắng nghe thầy nói, một cách mầu nhiệm tôi nhớ lại phong thái của chính thầy Jamyang Khientse những lúc thầy giảng giáo lý tuyệt vời một cách thao thao bất tuyệt, như từ một suối nguồn bất tận. Từ từ tôi kinh ngạc nhận thấy cái gì đã xảy đến: Đó là ân sủng tuệ giác của thầy Jamyang Khientse đã được trao truyền trọn vẹn cho pháp tử của ngài, Dilgo Khientse Rinpoche, và giờ đây ở trước chúng tôi, ân sủng tuệ giác ấy đang phát ngôn một cách lưu loát không cần nỗ lực, qua thầy Dilgo Rinpoche.

Sau buổi giảng, khi quay lại Khandro và Chokden, tôi thấy mặt họ đang ràn rụa nước mắt, và bảo:

– Chúng tôi biết Dilgo Khientse là một bậc thầy vĩ đại, và chúng tôi cũng biết người ta thường bảo một vị thầy có thể truyền hết ân sủng tuệ giác cho pháp tử của mình. Nhưng chỉ mới hôm nay, bây giờ và tại đây, tôi mới thực chứng được sự thật ấy có nghĩa gì.

Khi nghĩ lại cái ngày kỳ diệu ấy ở Sikkim, và nghĩ đến những bậc thầy vĩ đại mà tôi đã biết, thì tôi lại nhớ đến những lời này của một bậc thánh Tây Tạng:

– Khi mặt trời sùng kính chói chang (của môn đệ) chiếu trên đỉnh núi tuyết là bậc thầy, thì dòng thác ân sủng của thầy sẽ tuôn xuống.

Tôi lại nhớ đoạn văn của chính Dilgo Khientse Rinpoche đã diễn tả những đức tính cao quí vô biên của bậc thầy một cách hùng hồn hơn bất cứ đoạn văn nào khác:

– Thầy như một con thuyền lớn cho chúng sinh vượt qua đại dương hiểm nghèo của sinh tử, thầy là thuyền trưởng vững vàng hướng dẫn chúng tới bến bờ khô ráo của giải thoát; thầy là cơn mưa dập tắt ngọn lửa não phiền, là ánh nhật nguyệt chói lọi xua tan bóng tối vô minh, là đất kiên cố có thể chuyên chở sức nặng của ác và thiện, một Cây ước ban bố niềm vui tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu, là kho tàng giáo lý thâm diệu bao la, là ngọc châu như ý đem lại tất cả đức tính của chứng ngộ, là cha là mẹ trải lòng thương bình đẳng lên tất cả hữu tình, là con sông lớn của lòng từ, là ngọn núi vươn lên trên mọi lo phiền thế tục, không lay chuyển trước những gió bão của cảm xúc; thầy là vừng mây lớn đem mưa rưới mát những dằn xé của dục vọng. Tóm lại, thầy ngang với tất cả chư Phật. Chỉ cần liên lạc với bậc thầy bằng bất cứ cách nào, hoặc trông thấy thầy, hoặc nghe giọng nói của thầy, hoặc được thầy lấy tay sờ đầu, hoặc nhớ đến thầy, cũng sẽ đưa ta đến giải thoát. Hoàn toàn đặt tin tưởng nơi bậc thầy, đó là cách bảo đảm nhất để có tiến bộ trên đường chứng đắc tuệ giác. Sự ấm áp của trí tuệ và từ bi của thầy sẽ làm tan những cấu uế trong người ta và giải tỏa được chất vàng ròng của Phật tính trong ta.

Tôi đã ý thức được niềm ân sủng mà các bậc thầy tôi rót vào tâm tôi mà tôi hầu như không hay biết. Từ ngày Dudjom Rinpoche chết, những học trò tôi bảo rằng những lời giảng dạy của tôi trở nên lưu loát rõ ràng hơn. Cách đây không lâu, sau khi nghe Dilgo Khientse Rinpoche giảng một bài pháp hay đặc biệt, tôi đã bày tỏ lòng thán phục của tôi và nói:

– Thật như là một phép lạ, khi những lời giảng tuôn ra từ tâm trí tuệ của ngài một cách tự nhiên không nỗ lực.

Thầy nhẹ nhàng ngả về phía tôi và nói, với một ánh mắt trêu chọc:

– Và mong sao những lời dạy của con bằng tiếng Anh cũng tuôn ra dễ dàng trôi chảy như vậy.

Từ đấy trở đi, tự nhiên tôi có cảm giác cái khả năng diễn đạt giáo lý nơi tôi trở nên tự nhiên hơn, hoàn toàn không do luyện tập. Tôi xem quyển sách này như một biểu hiện của niềm ân sủng từ những vị thầy tôi, được truyền từ tâm trí tuệ của bậc thầy và vị đạo sư tối hậu là Padmasambhava. Vậy, quyển sách này là tặng phẩm của các ngài đến cho bạn.

Chính niềm sùng kính đối với những bậc thầy đã đem lại cho tôi sức mạnh để giảng dạy, và tâm hồn rộng mở, tính cảm thụ sâu xa để học hỏi và luôn luôn học hỏi. Chính thầy Dilgo Khientse Rinpoche cũng không bao giờ ngưng học hỏi một cách khiêm hạ từ những bậc thầy khác, phần lớn là từ chính những đệ tử của ngài. Bởi thế, niềm sùng kính gợi cảm hứng cho sự giảng dạy cũng là sự sùng kính đem cho ta tính khiêm hạ để tiếp tục học hỏi.

Vị đại đệ tử của Milapera là Gampopa đã hỏi thầy mình lúc chia tay:

– Khi nào thì đúng lúc con nên khởi sự dìu dắt đệ tử?

Milapera trả lời:

– Khi con không phải như con bây giờ, khi toàn thể nhận thức của con đã được chuyển hóa, và con có thể thấy, thực sự thấy, cái ông già trước mặt con không ai khác hơn là chính đức Phật. Khi lòng sùng kính đã đem lại cho con giây phút nhận thức được như thế, cái lúc ấy sẽ là dấu hiệu chứng tỏ thời gian ra giáo hóa của con đã đến.

Giáo lý này đã đến với bạn từ tâm giác ngộ của Padmasambhava xuyên qua hàng bao thế kỷ, trên ngàn năm, qua một dòng truyền thừa không gián đoạn gồm những bậc thầy mà mỗi vị đều trở thành bậc thầy chỉ nhờ đã biết khiêm hạ làm đệ tử, và vẫn luôn luôn, trong ý nghĩa sâu xa nhất, là đệ tử của những bậc thầy họ suốt cả đời. Ngay cả vào lúc ngài đã tám mươi hai tuổi, mỗi khi Dilgo Khientse Rinpoche nói về Thầy mình là Jamyang Khientse Rinpoche, mắt ngài đều rướm lệ, những giọt nước mắt của niềm tri ân và sùng kính. Trong bức thư cuối cùng gửi cho tôi trước khi chết, ngài đã ký tên là “Đệ tử đệ nhất”. Điều ấy chứng tỏ cho tôi thấy thực vô tận thay lòng sùng kính chân thực, và cùng với sự chứng ngộ cao nhất cũng phát sinh niềm sùng kính lớn nhất và niềm tri ân toàn vẹn nhất, vì nó đầy cả đức khiêm cung.

Bình luận


Bài viết liên quan

  1. BA NGƯỜI THẦY VĨ ĐẠI
  2. NĂNG LỰC CỦA LÒNG SÙNG KÍNH
  3. THẦY TRÒ

Bài viết khác của tác giả

  1. TÍNH SÁNG TẠO-THIỆN TÂM
  2. THIỆN TÂM
  3. SÓNG VÀ ĐẠI DƯƠNG

Bài viết mới

  1. ĐẢN SANH VÀ NHẬP SƠ THIỀN TẠI LỄ HẠ ĐIỀN
  2. 5 CÁCH NUÔI DƯỠNG TÌNH YÊU THIÊN NHIÊN Ở CON TRẺ
  3. NHỮNG VÍ DỤ VỀ BUÔNG BỎ