SỰ QUÝ GIÁ ĐƯỢC TÁI SANH LÀM NGƯỜI

KARMAPA THỨ 9 WANGCHUG DORJE

Trích: Đại ấn – Thiền xóa tan bóng tối của vô minh; Karmapa thứ chín Wangchug Dorje với bình giảng khẩu thuyết của Beru Khyentze Rinpoche; Đương Đạo dịch; Thiện Tri Thức, 2001.

Căn cứ cho sự thực hành như thế này là thân người quý giá. Bởi vì thân người rất khó được, con chớ để mình buông theo sự thản nhiên lười biếng, mà phải dấn thân toàn bộ vào thực hành. Nếu khi thân người có đầy đủ khả năng này bị thần chết và vô thường giựt mất, con phải ra đi với hai bàn tay trắng, bấy giờ con sẽ ra sao ? Vì thân tướng làm người khó được và dễ mất, con cần nỗ lực làm cho sự có được thân người trở thành ích dụng trong mọi lúc và mọi hoàn cảnhNỗ lực như thế là thực hành sơ bộ thứ tám.

Một thân làm người với đầy đủ tự do và cơ hội để học và thực hành Pháp là cực kỳ quý hiếm. Nó là dụng cụ nhờ đó bạn sẽ đạt Giác Ngộ hay nếu không cẩn thận thì một tái sanh thấp kém. Nó có được là do những tích tập công đức và huệ quán, nhất là giữ giới cũng như cầu nguyện cho một tái sanh như vậy. Shantideva đã nói rằng có được nó cũng hiếm hoi như một con rùa mù sống dưới đáy biển một trăm năm mới nổi lên mặt nước một lần để chui cổ vào một cái vòng vàng gió thổi dật dờ trên mặt biển. Trong thí dụ này, con rùa là chúng sanh, bị mù vì vô minh của họ, ở dưới đáy biển là những cõi thấp, nổi lên mặt nước là tái sanh, cái vòng vàng là tái sanh quý báu làm người và bị gió thổi dật dờ là những thăng trầm của nghiệp.

Tính theo con số thì một đời làm người là hiếm có. Có nói rằng con số chúng sanh ở địa ngục thì nhiều như cát ở sa mạc, ngạ quỷ như bụi trong không khí, súc sanh thì như sao đêm và làm người thì như sao được thấy lúc ban ngày. Nếu bạn xem có thể tính ra số người dân trong một nước, nhưng không thể đếm được số thú vật, côn trùng, vi trùng ở đó, bạn sẽ có được đánh giá về điều này. Hơn nữa, trong dân số thế giới, người có lòng tốt còn hiếm hơn, và trong đó, những người có tự do, cơ hội và khuynh hướng theo Pháp lại càng ít.

Bởi thế, đã có được sự làm người rất quý giá, chớ hoang phí nó, vì đời người ngắn ngủi. Chớ như một chuyến đi biển tìm kho tàng mà trở về tay không. Chớ ngó ngàng đến lạc thú phù vân, hãy thực hành Pháp và đạt đến hạnh phúc tối hậu vĩnh cửu.

ĐIỀU KIỆN NGUYÊN NHÂN 
CHO THÀNH CÔNG

Trong bốn điều kiện để thực hành thành côngđiều kiện nguyên nhân là nỗ lực tu hành dòng tâm thức của con với tư tưởng về vô thường và phát triển sự buông bỏ. Hơn nữa, phải xoay chuyển khỏi sự hấp dẫn ám ảnh bằng cách thấy đặc tính bất toại nguyện của mọi sự trong sanh tử, hoặc của con hoặc sự vật nói chung. Đây là thực hành sơ bộ thứ chín.

Cũng như những điều kiện nguyên nhân cho một cái biết về thị giác là những nguyên tố đất, nước, lửa, gió và không gian của đối tượng và của nhãn căncũng thế những sơ bộ chung này là những khối đá xây nền của thực hành thiền định.

ĐIỀU KIỆN CHÍNH YẾU

Con cần thành tâm với một đạo sư tâm linh toàn hảo như vị Guru đại diện cho dòng. Vị Guru là lời của Phật, vị Guru là thực tại tối hậu, vị Guru là một đặt tên cho một sự xuất hiện… Bấy giờ con phải thực hành bất cứ đường lối nào ngài dạy cho con theo cách khẩu truyền. Bởi vì được chăm sóc bởi một vị thầy hoàn hảo là điều kiện chính yếu, con cần thành tâm theo cách ấy. Đây là thực hành sơ bộ thứ mười.

Điều kiện chánh yếu cho một cái biết về thị giác là năng lực biết của con mắt. Cũng thế nhờ năng lực của sự thành tâm bạn sẽ có thể chứng ngộ mọi huệ quán.

ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN

Con phải dứt bỏ hoàn toàn mọi cảm thức phân phái, thiên lệch bởi vì tất cả mọi học phái, mọi dòng truyền đều được kiến lập bởi sự đặt tên của tâm thức và đều là những quy ước. Con phải chắc chắn rằng chúng đều không mâu thuẫn nhau và từ mỗi cái con có thể đi đến bản tánh bổn nguyên, tự nhiên, độc đáo của thực tại, cái trạng thái thường trụ của mọi vật. Vì đây là điều kiện khách quan để không mê lầm về cái cần tham thiền, con phải chắc chắn như thế. Đây là thực hành sơ bộ thứ mười một.

Mọi học phái khác nhau phổ biến ở Ấn Độ và Tây Tạng phát xuất từ Phật Thích Ca Mâu Ni và là những diễn đạt những phương tiện thiện xảo của ngài để dẫn dắt đệ tử đủ loại bẩm chất khác nhau đến sự chứng ngộ thực tại tối hậu. Chúng là những cách khác nhau để diễn bày cùng một cái và chỉ là những ngôn ngữ, được kiến lập như những trường phái do sự đặt tên của tâm thức con người như vậy. Không có cái nào là xung đột. Cũng như một hình tướng thấy được là điều kiện khách quan cho một cái biết thị giác, cái hiểu không bộ phái của bạn về thực tánh của tâm thức là điều kiện khách quan cho thực hành thành công.

ĐIỀU KIỆN TRỰC TIẾP

Không những con phải nỗ lực thành khẩn từ đáy lòng với một trạng thái tâm thức trong đó con thoát khỏi sự bám luyến ám ảnh vào tham thiền, mà con còn phải không có bất kỳ dấu vết nào của mong mỏi hay lo toan như nghĩ, “Nếu tôi thiền định bây giờ hay trong tương lai hay đã làm trong quá khứ, thì quả thật đáng giá, nhưng nếu không thì thật vô giá trị.” Bởi vì thoát khỏi những mong cầu và lo toan là điều kiện trực tiếp, con phải thực hành trong một trạng thái của tâm thức không thi thiết giả tạo. Đây là thực hành sơ bộ thứ mười hai.

Khoảnh khắc trực tiếp trước của thức là điều kiện trực tiếp cho một cái biết thị giáccung cấp sự tương tục tỉnh giácTrạng thái trên của tâm thức có một chức năng tương tự trong tham thiền Đại Ấn.

Những sơ bộ kết thúc ở đây.

Bình luận


Bài viết liên quan

  1. CHUYỆN MỘT VỊ NI TÁI SINH
  2. TÁI SINH
  3. TÁI SINH – LỜI NGỎ TỪ CÕI TÂM LINH

Bài viết khác của tác giả

  1. NGHIỆP VÀ LUẬT NHÂN QUẢ
  2. NHẬN RA BẢN TÁNH CỦA TÂM AN ĐỊNH
  3. BÀI NGUYỆN ĐẠI ẤN

Bài viết mới

  1. THẦY VÀ ĐỆ TỬ
  2. QUAN SÁT TÂM, ĐIỀU PHỤC TÂM
  3. ÁP DỤNG QUY LUẬT NỖ LỰC TỐI THIỂU