THÔNG ĐIỆP VỀ CON NGƯỜI TOÀN DIỆN

Trích: Trần Nhân Tông – Đời Đạo Không Hai, NXB Thiện Tri Thức – NXB Tôn Giáo. 2024

01/09/2025
205 lượt xem

Trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy không phải là ngài nói về con đường tâm linh của chính ngài, mà đúng ra là những lời dạy, những lời nhắn nhủ gửi tới người đương thời mà còn cho những thế hệ tương lai.

Qua những kinh nghiệm đời và những chứng ngộ, ngài muốn truyền lại những lời dạy, cả đạo và đời.

❤❤❤

1/ Đối với chính mình

 

Biết vậy! Miễn được lòng rồi Chẳng còn phép khác.

Gìn tính sáng, tánh mới hầu an Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Hai)

 

Đạo là biết được Lòng (Tâm), Một Lòng (Nhất tâm). Lòng ấy là tánh Không và tánh sáng.

Cuộc đời bình thường là sự biểu lộ, sự diễn đạt của Một Lòng, nên nhìn đâu cũng thấy Một Lòng ấy hiển hiện.

Lòng ấy, Nhất Tâm ấy chính là Phật ở nơi mỗi người nên “chẳng phải tìm xa”:

 

Vậy mới hay, Bụt ở trong nhà,

Chẳng phải tìm xa.

Nhân khuấy (quên) bản nên ta tìm Bụt. Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Năm)

 

Bụt ở trong nhà là Phật ở trong thân tâm mỗi người. Chỉ cần nhớ (niệm) đừng quên thì có Phật. Thế nên, chánh niệm của Thiền, Đại Toàn Thiện, Đại Ấn là chánh niệm tỉnh giác Tự Kỷ Phật này.

Một con người toàn diện là phải biết kết nối với cái phần tâm linh, con người tâm linh của mình, bằng chánh niệm tỉnh giác, bằng thiền định thiền quán, và bằng các hạnh Bồ tát.

❤❤❤

2/ Đối với người khác

Nhưng điều tối quan trọng là ngài Trần Nhân Tông chỉ dạy cho chúng ta Nhất Tâm ấy, Phật tâm ấy không tách lìa với trần thế, nhưng biểu lộ trong những tính mà nhiều người nghĩ là đạo đức và phong tục đời thường.

Chữ đạo đức được vua nhắc đến bốn lần trong mười hội (Hội 2, 4, 7, 10). Nhưng đạo đức trong quan niệm của ngài là thế nào? Có phải đạo đức là những tính tốt để đối trị những tính xấu, những phiền não, để rồi, sau khi những thứ tiêu cực hết thì đạo đức cũng bỏ đi không dùng nữa?

 

Say đạo đức,

Dời thân tâm,

Định nên thánh trí.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Mười)

 

Say đạo đức, chuyển đổi thân tâm, nhất định đây là thánh trí. Như thế thánh trí xuất hiện do dời thân tâm chứ không lìa bỏ thân tâm, và trong thân tâm ấy vẫn còn đạo đức. Đạo đức là những đức tính của Phật tâm, Phật tánh, và khi Phật tâm, Phật tánh xuất hiện thì “đạo đức càng say”.

 

Vô minh hết, Bồ đề thêm sáng;

Phiền não rồi (giải thoát), đạo đức càng say.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Bảy)

 

Vô minh hết, thì Bồ đề (giác ngộ) vốn có sẵn bày hiện sáng rỡ. Phiền não được giải thoát rồi, thì đạo đức, tức là những đức tính, những công đức vốn tiềm ẩn nơi bản tâm càng hiển lộ làm cho hành giả say sưa.

Như thế, đạo đức, những đức tính của Bồ tát không phải là cái gì được thiết lập một cách tạm thời, mà chúng chính là Phật tâm, Phật tánh biểu lộ ra nơi những đức tính của con người. Thế nên những đức tính kết nối con người với Phật tâm của nó.

Nếu Phật tâm là một cái cây, thì những cành là những đức tính và những đức tính ấy phân nhỏ thành những lá đi vào trong mọi phần tử của thân tâm con người. Như sự thanh tịnh bổn nguyên của thức, mà Duy thức gọi là Bạch tịnh thức hay A lại da tánh thanh tịnh đi vào và thấm nhuần trong tất cả tám thức. Các đức tính dù nhỏ, vẫn là sự biểu lộ của Phật tâm trong tâm, trí, tình của con người.

Phật tâm đi vào con người không những ở cấp độ tâm linh mà còn ở cấp độ ý thức và cả ở cấp độ thân thể. Chẳng hạn mười ba la mật là sự biểu lộ của Phật tâm ở cấp độ con người: bố thí ba la mật, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ ba la mật, trung thực ba la mật, quyết định ba la mật…

Ở cấp độ nhỏ hơn trong đời sống hằng ngày, ngài đã chỉ ra rất nhiều đức tính, nhất là trong tương quan giữa người với người:

 

Tích nhân nghì (nghĩa), tu đạo đức

Ai hay này chẳng Thích Ca Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham Chỉn thực ấy là Di Lặc.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Tư)

 

Tích nhân nghĩa, tu đạo đức, khi thành tựu thì chính là Đức Thích Ca. Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, khi thành tựu thì chính là đức Di Lặc.

Cần hiểu chữ giới hạnh là cái đầu tiên trong Giới – Định – Huệ, đó chính là đạo đức, nói theo chữ thường dùng.

 

Sạch giới lòng,

Chùi giới tướng,

Nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm.

Ngay thờ chúa,

Thảo thờ cha, đi đỗ (dừng) mới trượng phu trung hiếu.

Tham thiền kén bạn

Nát thân mình mới khá hồi ân.

Học đạo thờ thầy

Dọt xương óc chưa thông của báo.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Sáu)

 

Giới lòng là chánh niệm tỉnh giác về tính thanh tịnh bổn nguyên của mình, người và thế giới. Giới tướng là biểu lộ của giới lòng ấy ra nơi thân, khẩu, ý. Đây là sự trang nghiêm bên trong và bên ngoài của Bồ tát.

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi dừng mới trượng phu trung hiếu là đạo đức của một công dân đối với các cấp lãnh đạo, của một người con đối với cha, của một người trong xã hội biết đi, biết dừng đúng lúc. Những mối tương quan này là sự trật tự của Phật tâm biểu lộ nơi con người, sự trật tự của Lý biểu lộ nơi Sự. Chân chánh, ngay chánh (chữ chánh trong Tám chánh đạo), trong những mối tương quan này là tùy thuận trật tự của thế đế (chân lý thế gian), và cần hiểu rõ trật tự của thế đế chính là sự biểu lộ của chân đế Phật tâm. Đây là sự biểu lộ của Không trên bề mặt “sắc”.

Thấy biết như thế thì đạo đức là sự biểu lộ của Phật tâm và đạo đức kết nối con người với Phật tâm. Và trong trật tự đạo đức, người ta có thể thấy ra và sống với Phật tâm.

Bạn và thầy là hai tương quan khác của con người. Đưa tương quan ấy đến mức chân chánh (chữ chánh trong Tám chánh đạo) tức có thể nối kết và tương ưng với Phật tâm.

Như thế, đạo đức hay giới hạnh là sự trang nghiêm cho mình, người và thế giới.

Vua Trần Nhân Tông đã biểu hiện giới hạnh, đạo đức của ngài trong đối nhân xử thế với người khác rất hoàn hảo để có thể là một tấm gương cho các thế hệ sau.

❤❤❤

3/ Đối với thế giới

 

Phúc tuệ gồm no,

Chỉn mới khá nên người thực cốc (biết). Dựng cầu đò, giồi chiền tháp

Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu. Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi

Nội tự tại kinh lòng hằng đọc.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Tám)

 

Phúc tuệ gồm no là đầy đủ hai sự tích tập: tích tập phước đức và tích tập trí huệ. Phước đức chủ yếu được tích tập ở thế giới và khi sống với người khác ở bên ngoài.

“Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu” là dựng cầu đò…, xây dựng những tiện nghi vật chất và làm đẹp cho cảnh quan đất nước. Đó là lập nên và trau dồi những chùa chiền, tháp, tượng để trang nghiêm cho “sự tướng” của đạo Phật. Những trang nghiêm này nhắc nhở cho mỗi người về con người tâm linh của chính họ.

Với ngài, chỉ riêng việc làm cho Yên Tử thành một nơi chốn tâm linh của đất nước, để nhắc đến Việt Nam là nhắc đến Yên Tử, cho chúng ta thấy chỉ một việc “ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu” của ngài như thế nào.

Với sự trang nghiêm cho đất nước, cho thế giới, con người biến thế giới thành thân thiện, thành một môi trường để tâm linh tiến hóa. Thế giới trở thành một người bạn, một người mẹ nuôi dưỡng mình, và như vậy thế giới trở thành người bạn đồng hành của con người trong cuộc hành hương vĩnh cửu.

Hai câu chót tiếp liền của đoạn trên nói, “săn hỷ xả, nhuyễn từ bi; nội tự tại kinh lòng hằng đọc”, cho thấy ngài không tách lìa cái bên ngoài và bên trong. Trang nghiêm cho bên ngoài cũng là trang nghiêm cho chính con người mình. Con người mình gồm phần tâm linh, phần tâm thức (lý tính và tình cảm), và phần thân thể vật lý.

Như thế người ta tiến hóa bằng chính sự tiến hóa của người khác và thế giới.

Vua Trần Nhân Tông hầu như hoàn hảo về cả ba mặt này: cư xử và nối kết với con người tâm linh của mình, cư xử và nối kết với những người khác qua giới hạnh và đạo đức, và sau cùng, cư xử và nối kết với thế giới, nơi mình sống và làm việc.

Hoàn hảo trong cả ba mặt của đời sống, cho nên ngài là một con người toàn diện.

Cuộc đời và những lời dạy của ngài là một thông điệp về con người toàn diện cho những thế hệ sau. Thông điệp ấy không mờ nhạt đi theo thời gian năm tháng, mà càng rõ ràng hơn, càng thúc bách hơn, khi tầm mắt của người Việt không còn nằm trong “những lũy tre làng” nhưng mở ra với thế giới hiện đại.