ĐỨC HẠNH NGÀI ĀNANDA

HELLMUTH HECKER

NYANAPONIKA THERA

Trích: Đại Đệ Tử Phật – Bước Thầy Con Theo; Nyanaponika Thera & Hellmuth Hecker/ Ban Biên Tập Thích Ca Thiền Viện soạn dịch sang Việt ngữ; -NXB Tôn Giáo, Năm 2017

Tượng ngài Ananda (ảnh: Internet)

Ānanda – Vài thí dụ cho trọng trách phụ tá Đức Phật là cuộc tranh cãi gay gắt giữa chư tăng ở Kosambī hay âm mưu chia rẽ Tăng già của Devadatta. Ngài Ānanda đã giữ một vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội vụ và giữ gìn trật tự, quy củ cho Tăng chúng. Ngài thường là người đứng giữa cho chư tăng của cả hai bên trình bày ý kiến, sắp đặt cho các vị được gặp Đức Phật, hay mang thông điệp giáo huấn của Đức Tôn Sư đến các sa môn lầm đường lạc lối vì theo tà phái. Ānanda không khước từ một ai và lúc nào cũng là chiếc cầu nối chứ không là hàng rào cản.

Trong vai trò thị giả của Đức Phật, còn bao nhiêu lần khác Ānanda cũng đã làm chiếc cầu nối cao quý và quan trọng này, mang đến cho tứ chúng hơi ấm lòng bi mẫn, ánh hào quang trí tuệ, hương vị giải thoát, và bóng mát ân đức của Thế Tôn.

Khi Sa môn Girimānanda và Sa môn Phagguna lâm trọng bệnh, Ānanda thỉnh cầu Thế Tôn đến viếng thăm và thuyết pháp để giúp chư vị được tăng trưởng sức lực (AN 10:60, 6:58). Trong lần Đại Đức Girimānanda lâm bệnh, ngài Ānanda bạch Đức Phật:

“Bạch Thế Tôn, Girimānanda đang mang trọng bệnh, đau đớn khổ sở. Lành thay, nếu Thế Tôn rũ lòng từ mẫn đến thăm sư ấy.”

Thế Tôn hiền hòa dạy:

“Này Ānanda, nếu con đến thăm Girimānanda và giảng cho Girimānanda nghe về Mười Tưởng, bệnh của sư ấy có thể được thuyên giảm ngay lập tức! Mười Tưởng ấy là: tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nguy hại, tưởng đoạn tận, tưởng từ bỏ, tưởng đoạn diệt, tưởng nhàm chán đối với tất cả các pháp, tưởng vô thường trong tất cả hành, tưởng niệm hơi thở vào và hơi thở ra.”

Sau khi được Thế Tôn giảng dạy, ngài Ānanda liền đến thăm Girimānanda và giảng lại thật đầy đủ, tường tận về Mười Tưởng. Nghe xong pháp thoại từ vị hiền hữu, bệnh của Girimānanda tức khắc thuyên giảm (AN 10:60).

Và như vậy, qua nhiều cách thức khác nhau trong vai trò “phụ tá” Đức Phật, ngài Ānanda luôn luôn tỏ rõ lòng quan tâm, lo lắng cho việc xây dựng, củng cố Giáo đoàn và nhiệt tâm phục vụ tứ chúng. Đó là các đức tánh của một người cha lành trong vai trò “phụ tá” Đức Phật, bên cạnh các đức tánh của một người mẹ hiền với trọng trách “người hầu cận” Thế Tôn. Riêng biệt tài tổ chức, thuyết phục, và hòa giải của Ānanda cũng từng được biểu lộ và huân tập trong các kiếp trước, khi ngài làm phụ tá của vua trời Sakka (Đế Thích).
Trong số những đức hạnh cao quý và hiếm có của ngài Ānanda còn phải nhắc tới hạnh nhẫn nại và kiên quyết.

Có ba lần một số tỳ khưu làm ồn trong tịnh xá nên Đức Phật hỏi Ānanda duyên cớ. Ānanda luôn luôn giải thích nguyên do thật tường tận để từ đó Đức Phật ban các giáo huấn thích hợp (MN 67; Ud 3.3; Vin. 4:129). Lần sau cùng mang ý nghĩa quan trọng nhất.

Lần này, theo lời dạy của Đức Phật, ngài Ānanda gọi một nhóm sa môn gây náo động trong tịnh xá đến gặp Đức Phật. Thế Tôn khiển trách giới hạnh của họ và không cho phép họ tiếp tục cư ngụ ở tịnh xá nữa.

Các vị biết lỗi lầm của mình và hiểu được lòng từ mẫn của Thế Tôn nên ngay sau đó đi tìm nơi vắng vẻ, thanh tịnh để ẩn cư và tu tập. Gìn giữ giới hạnh, tinh tấn miên mật hành thiền, thanh lọc tâm ý, cuối mùa an cư nhập hạ năm ấy tất cả đều chứng đạt được tuệ giác biết được các kiếp quá khứ, biết được sự sanh diệt của chúng sanh diễn biến như thế nào qua luật nghiệp quả, và biết được các pháp đoạn trừ ô nhiễm, vô minh.

Biết được những thành quả này, Đức Thế Tôn cho gọi các vị về. Lúc họ đến nơi thì Ngài đang nhập đại định. Các vị nhận ra được tầng thiền Bổn Sư đang an trú nên cùng tọa thiền và nhập định vào tầng thiền ấy.

Thời gian yên lặng trôi. Canh một đã qua, Ānanda đứng dậy, chắp tay đảnh lễ Thế Tôn và nhắc Ngài tiếp chư tỳ khưu vì tưởng rằng các vị kiên nhẫn đợi chờ vì kính trọng Bổn Sư đang nhập định. An trú sâu trong định nên Ngài và chư vị không nghe được tiếng thưa của Ānanda, và vì vậy tất cả vẫn yên lặng. Rồi canh hai trôi qua, Ānanda lại chắp tay nhắc Thế Tôn. Tất cả vẫn yên lặng. Hết canh ba, trời hừng sáng, Ānanda lại bạch Ngài lần nữa. Lúc bấy giờ Ngài xuất khỏi định ấy và nói với Ānanda:

“Này Ānanda, nếu con có thể thấy biết được tâm của Như Lai và chư tăng lúc nãy thì đã biết được rằng Như Lai và các vị ấy đang cùng an trú trong đại định, âm thanh không thể xuyên thấu vào” (Ud.3:3).

Sự việc trên biểu hiện hạnh kiên nhẫn tột bực của ngài Ānanda. Sự việc ấy còn có thể đã góp phần giúp ngài hiểu rõ được hơn các giới hạn chứng đắc của mình mà hạ quyết tâm hành thiền tinh tấn và kiên quyết, dù ngài còn bao nhiêu trách nhiệm cần gánh vác với bổn phận thị giả của Thế Tôn. Tương Ưng Bộ Kinh ghi lại hai lần Ānanda ngồi xuống bên Đức Phật, hỏi xin đề mục hành thiền: “Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy vắn tắt thuyết pháp cho con để sau khi nghe Pháp ấy con sẽ sống một mình trong an tịnh, nỗ lực và tinh cần thiền tập.”

Lần thứ nhất, Bổn Sư dạy Ānanda quán Tam Tướng – vô thường, khổ và vô ngã – của ngũ uẩn (Tương Ưng Uẩn, SN 22:158):

“… Này Ānanda, sắc là vô thường, là khổ… Cũng như vậy với thọ, tưởng, hành, thức… Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?’”

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”

“Do thấy vậy, vị ấy biết rõ và không trở lui trạng thái này nữa.”

“Lần thứ hai, Bổn Sư dạy Đại đức quán Tam Tướng của sáu xứ (Tương Ưng Sáu Xứ, SN 35:86):

“… Này Ānanda, bậc thinh văn thánh đệ tử quán thấy được tướng vô thường, khổ và vô ngã của mắt, sắc, nhãn xúc, nhãn thức nên nhàm chán… Cũng như vậy với tai, mũi, luỡi, thân, ý… Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Với tuệ giác chứng đạt, vị ấy biết rõ rằng: ‘Ta đã được giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.’”

Và như thế, ngài Ānanda vừa cần mẫn, tận tụy, trung kiên phụng sự Thế Tôn với trọng trách thị giả, vừa kiên quyết tinh tấn tu tập và luôn dũng tiến trên đường giải thoát, xứng đáng với lời tán thán của Đức Phật (AN 1-14):

“Trong các đệ tử tỳ khưu có nghị lực và ý chí kiên quyết, đệ nhất là Ānanda.

Trong các đệ tử tỳ khưu từng là thị giả của Như Lai, đệ nhất là Ānanda.”

Nhưng cao quý và cảm động hơn cả là sự sẵn sàng hy sinh sanh mạng để bảo vệ Bổn Sư của Ānanda.

Mang cuồng vọng thủ tiêu Đức Phật vì tưởng có thể thay thế cương vị của Ngài khi Ngài qua đời, Devadatta cho một thớt voi bất kham, hung hãn – Nālāgirī – uống rượu thật say rồi thả chạy loạn vào con đường có Đức Phật đang đi trì bình để giẫm đạp Ngài cho đến chết.

Ānanda can đảm xông lên, đứng chắn ngang trước Đức Phật, sẵn sàng chết thay để bảo vệ cho tánh mạng và sự an toàn của Bổn Sư. Ba lần Đức Phật kêu Ānanda bước sang một bên, nhưng ba lần Trưởng lão kiên quyết không tuân lời. Cuối cùng, Thế Tôn đã phải dùng thần thông nhấc bổng Ānanda lên và nhẹ nhàng đặt xuống nơi khác mới can ngăn được quyết tâm hy sinh của Trưởng lão.

Rồi Thế Tôn dịu dàng niệm rải tâm từ đến voi Nālāgirī đang phẫn nộ trong cuồng loạn. Trước Thế Tôn tĩnh lặng hiền hòa, đứng yên trên đường, voi bỗng dừng chân điên dại, quỳ phủ phục trước Thế Tôn và cúi đầu thuần phục (Jāt. 533). Đức Phật thuật lại rằng trong tiền kiếp, Ānanda cũng đã bốn lần xả thân để cứu Đức Bồ tát, tiền thân của Đức Phật. Lòng hy sinh thân mạng cho Bổn Sư này đã làm rạng rỡ thêm phẩm hạnh và danh thơm của người thị giả trung tín Ānanda.

Bình luận


Bài viết liên quan

  1. BẢN CHẤT ĐÍCH THỰC CỦA LÒNG BI MẪN 
  2. TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ
  3. TRUNG THỰC – KHIÊM TỐN – HỢP TÁC – HẠNH PHÚC – Những Giá Trị Sống Cho Tuổi Trẻ

Bài viết khác của tác giả

  1. A NAN ÐA LÚC PHẬT GẦN NHẬP NIẾT BÀN
  2. NẺO ĐƯỜNG RIÊNG – CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI THỊ GIẢ TRUNG THÀNH CỦA ĐỨC PHẬT
  3. A NAN ÐA ĐỐI VỚI NỮ GIỚI

Bài viết mới

  1. NHỮNG KỸ NĂNG DỄ DÀNG
  2. NẾU MỘT THẤT BẠI KHÔNG MANG TỚI CẢM GIÁC ĐAU ĐỚN, KHÓ CHỊU GÌ, NÓ SẼ BỊ LỜ ĐI
  3. VƯỢT LÊN CHÍNH MÌNH